Thơ dịch của Trần Thị Thanh Liêm

Nhà giáo Trần Thị Thanh Liêm hiện đang là Trưởng Ngành Tiếng Trung, Đại học Đại Nam Hà Nội.

 

Thơ dịch


1) THƠ PHAN ĐÌNH PHÙNG - Việt Nam

CHỮ HÁN
ÂM HÁN VIỆT
臨終時作 - 潘廷逢
戎場奉命十更冬,
武略依然未奏功。
窮戶嗷天難宅雁,
匪徒遍地尚屯蜂。
九重車駕關山外,
四海人民水火中。
責望愈隆憂愈重,
將門深自愧英雄
LÂM CHUNG THỜI TÁC
Phan Đình Phùng
Nhung trường phụng mệnh thập canh đông,
Võ lược y nhiên vị tấu công.
Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn,
Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong.
Cửu trùng xa giá quan san ngoại,
Tứ hải nhân dân thuỷ hoả trung.
Trách vọng dũ long ưu dũ trọng ,
Tướng môn thâm tự quý anh hùng.
DỊCH RA NGHĨA TIẾNG VIỆT:
LÀM THƠ TRƯỚC LÚC LÂM CHUNG
Vâng mệnh ở chốn binh nhung đã mười năm,
Mưu lược đánh giặc vẫn chưa nên được việc gì.
Dân chúng cùng đường đói khổ kêu trời như đàn nhạn không có chỗ ở,
Bọn giặc còn đóng đồn như ong khắp mọi nơi.
Xa giá của vua đang ở ngoài quan sơn,
Nhân dân bốn bể như sống trong nước sôi lửa bỏng.
Trách nhiệm càng cao thì mối lo càng lớn,
Nghĩ mình cũng trong cửa tướng, mà riêng thẹn với tiếng anh hùng.
DỊCH THƠ:
TRƯỚC LÚC LÂM CHUNG
Phan Đình Phùng
Ở mệnh quan trường đã chục đông
Quân điều võ lược chửa thành công
Inh trời hộ đói tràn như nhạn
Dậy đất quân tà nổi tợ ong
Điệu giá cửu trùng chơi xứ ngoại
Đày dân tứ hải lụi than hồng
Càng cao trách nhiệm thêm sầu não
Luống thẹn cho thân chữ kiệt hùng.
Trần Thị Thanh Liêm dịch
2) NGUYỄN DU - Việt Nam
CHỮ HÁN
Âm Hán Việt: Đại nhân hí bút
代人戲筆 - 阮攸
錯落人家珥水滨,
居然別占一城春。
東西橋閣兼天起,
胡漢衣冠特地分。
苜蓿秋驕金勒馬,
葡萄春醉玉樓人。
年年自得繁華勝,
不管南溟幾度塵。
Nguyễn Du (1766-1820)
Thác lạc nhân gia Nhĩ thuỷ tân
Cư nhiên biệt chiếm nhất thành xuân.
Đông tây kiều các kiêm thiên khởi,
Hồ Hán y quan đặc địa phân.
Mục túc thu kiêu kim lặc mã,
Bồ đào xuân tuý ngọc lâu nhân.
Niên niên tự đắc phồn hoa thắng,
Bất quản Nam minh kỷ độ trần
3) Thái Thuận - Việt Nam
CHỮ HÁN
ÂM HÁN VIỆT
春暮
百年身世嘆浮苹,
春去誰能不老成。
流水橋邊楊柳影,
夕陽江上鷓鴣聲。
月於煙樹雖無分,
風與天香尚有情。
九十韶光容易過,
草心游子苦難平。
Xuân mộ
Bách niên thân thế thán phù bình,
Xuân khứ thùy năng bất lão thành.
Lưu thủy kiều biên dương liễu ảnh,
Tịch dương giang thượng giá cô thanh.
Nguyệt ư yên thụ tuy vô phận,
Phong dữ thiên hương thượng hữu tình.
Cửu thập thiều quang dung dị quá,
Thảo tâm du tử khổ nan bình.
Dịch nghĩa:
Chiều xuân
Thân thế trăm năm than cho kiếp bèo nổi,
Xuân đi rồi có ai không thành người già.
Bên cầu nước chảy in bóng dương liễu,
Trên sông chiều tà tiếng chim le le não nuột.
Trăng lồng trong khói cây tuy không có phận gì,
Gió quyện hương trời vẫn có tình với nhau.
Chín chục tuổi xuân qua một cách dễ dàng,
Khiến nỗi lòng người con đi xa khó bình lặng được.
Dịch thơ:
Chiều xuân
Muôn kiếp lênh đênh phận bọt bèo,
Xuân đi người luống tuổi già theo.
Dưới cầu nước chảy lay hình liễu,
Trên sông le kêu lảng bóng chiều.
Màn khói trăng buông trăng chểnh mảng,
Làn hương gió quyện gió buông gieo.
Thiều quang chín chục trôi thanh thoát,
Uẩn khúc tâm tư lắng đọng nhiều.
Trần Thị Thanh Liêm dịch
4) Nguyễn Trãi – Việt Nam
CHỮ HÁN
ÂM HÁN VIỆT
歸崑山舟中作 - 阮廌
十年飄轉嘆蓬萍
歸思搖搖日似旌
幾托夢魂尋故里
空將血淚洗先塋
兵餘斤斧嗟難禁
客裡江山只此情
鬱鬱寸懷無奈處
船窗推枕到天明
Xuân mộ
Bách niên thân thế thán phù bình,
Xuân khứ thùy năng bất lão thành.
Lưu thủy kiều biên dương liễu ảnh,
Tịch dương giang thượng giá cô thanh.
Nguyệt ư yên thụ tuy vô phận,
Phong dữ thiên hương thượng hữu tình.
Cửu thập thiều quang dung dị quá,
Thảo tâm du tử khổ nan bình.
Dịch nghĩa:
Trong thuyền về Côn Sơn cảm tác
Mười năm phiêu giạt than thân bồng bèo
Lòng muốn về ngày ngày lay động như đuôi cờ
Bao lần nhờ chiêm bao đi tìm làng cũ
Luống đem nước mắt lẫn máu rửa mồ tổ tiên
Sau cơn binh lửa, thương ơi, nạn búa rìu khó ngăn
Non sông đất khách chỉ đeo đẳng mối tình này
Tấc lòng bùi ngùi chẳng biết làm sao
Nằm ở cửa sổ thuyền trăn trở gối đến sáng
Dịch thơ:
CẢM TÁC TRONG THUYỀN VỀ CÔN SƠN
Mười năm trôi dạt phận chòng chành
Nỗi nhớ quê nhà mãi quẩn quanh
Muốn gửi mộng hồn nơi cố quận
Mong hòa huyết lệ mộ cha anh
Lửa binh rìu búa nào xong tội
Non nước quê hương mãi vẹn tình
Lòng dạ bùi ngùi sao khó tả
Xuôi thuyền trằn trọc suốt năm canh.
Đại học Đại Nam Hà Nội, 15/11/2013
Trần Thị Thanh Liêm