Bạn biết rõ Sài Gòn, tôi thì cảm nhận - Bút ký của Lê Thanh Huệ
Một sáng cuối tháng tư năm 1983, tôi bước xuống Ga Sài Gòn lúc bình minh trong tiếng nhạc bài “Tiến về Sài Gòn” từ chiếc loa đâu đó khiến lòng tôi bừng lên nỗi niềm khó tả. Ga Sài gòn không đông đúc nhưng xôn xao. 2 nhánh đường ray dừng lại nơi đây. Ngày xưa, tuyến đường sắt này còn đi tiếp về phía nam, xuyên qua tỉnh Chợ Lớn – Tân An về tận thành phố Mỹ Tho. Tàn tích đoạn cuối tuyến đường không còn trên mặt đất dù là dưới dạng bảo tồn. Sài Gòn, miền tây là vậy. Nghĩa tình nhiều, mênh mang như biển cả; nhưng điều gì trở thành vô ích sẽ không được giữ gìn. Để cho cái mới, cái phù hợp vươn lên.
Nhà ga cũ kỹ chào đón rồi nhanh chóng tiễn hành khách buổi bình minh. Lúc đó chưa nhiều người như bây giờ nhưng ra khỏi sân ga đã thấy phố phường hối hả. Thầy chủ nhiệm của tôi, giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu, suốt đời gắn bó với những dòng sông và bờ biển Việt Nam. Thầy có liên tưởng: nhịp sống người Sài Gòn, hối hả bởi tự nhiên với nhịp triều ngày 2 lần lên xuống. Theo lập luận này, nhiều lúc tôi tự hỏi: Nếu cố nhạc sỹ Cao Văn Lầu sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, chúng ta có được 6 câu vọng cổ hay không…
Tôi vội vàng xuôi về Bến xe Miền Tây để đến Long An. Huyện Bình Chánh của Sài Gòn lúc đó là thảm lúa xanh mượt hai bên Quốc lộ 1; bà con vẫn quen gọi tên cũ Lộ 4. Bà con trên xe có sự thiện cảm với tôi, gương mặt nhiều người có nét hân hoan chào đón...
Tôi đến Ban tổ chức tỉnh Long An. Tòa nhà 2 tầng, màu vàng mang dáng dấp công sở Pháp, phủ nét phôi phai, nép trong bóng cây cổ thụ. Tôi được chú Hai Thảo tiếp. Chú nói thực lòng, theo chỉ tiêu trên giao, tỉnh được phân 2 kỹ sư xây dựng cảng, đường thủy, nhưng thực ra cũng không biết nên phân công về đâu. Tôi trình giấy giới thiệu của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên; không xem, Chú nói: “Biết rồi. Tỉnh có nhà nghỉ. Cháu ở đây tìm hiểu, muốn làm việc ở đâu, Tỉnh sẽ bố trí”.
Tôi về nhà chị Vinh con bác ruột là vợ nhà văn Hào Vũ. Anh Hào Vũ, mang tôi khoe với Nhà thơ Đinh Thị Thu Vân. Do đó, bữa nhậu đầu tiên ở nhà Chị Vân. Hồi đó, Chị Vân, nổi tiếng với Bài thơ “Nếu không có ngày 30/4”. Tôi thật thà bảo rất thích bài thơ “Chút lạnh đầu xuân”. Trong sổ tay lưu niệm của tôi, bài thơ này được chép trang trọng nhất. Giờ mới gặp Chị, hiền lành và thật tình. Không có vẻ gì cao siêu như nhà thơ nổi tiếng cả… Đó là người dân miền Tây thứ 2 tôi gặp. Hơn 30 năm công tác ở Sài Gòn, ở miền Tây, tôi hiểu ra một điều, đó là sự cưu mang của bà con cô bác với những người xa xứ đến cùng chung tay xây dựng quê hương. Chính nhờ đó mà Nguyễn Ánh đã tồn tại và thắng nhà Tây Sơn lúc khốn khó.
*
* *
Tôi được giao việc đầu tiên: tính toán sự cố cảng Tân An bị trượt vì lý do gì. Hồi đó, Phân Viện thiết kế Bộ giao thông Vận tải là Cơ quan thiết kế công trình này nên Tôi mang bảng tính kiểm toán trượt cảng Tân An lên đây làm việc. Phân Viện đóng ở số 92 Nam Kỷ Khởi Nghĩa, phường Bến Nghé, Quận 1, trong căn nhà cũ dưới bóng cây gừa (cây đa) âm u.
Bến Nghé là bến nước đầu tiên Kênh Tàu Hủ - Bến Nghé, con kênh chảy qua trung tâm thành phố và nối với Sông Bến Nghé - tên gọi đoạn sông Sài Gòn chảy qua Thành phố Hồ Chí Minh trước khi hợp lưu với sông Đồng Nai ở Nhà Bè rồi đổ vào Biển Đông.
Bến Nghé cũng là trung tâm thành phố. Địa danh này gợi ý cho ta có bến thuyền “ghé” lại thuở hồng hoang.
Có vẻ như người xưa, ngược Biển Đông vào đến đây, thấy dãy Trường sơn xa mờ phía Bắc. Cây cối rậm rạp che mặt sông. Rảo vài bước đã ở trong rừng rậm miền đồng bằng. Cảm giác yên tâm trước miền sinh thái rừng ngập mặn được nối tiếp với miền đồi núi trung du phía Tây Bắc (Gò Vấp bây giờ). Cắm con thuyền, đi sâu về phía Bắc (nay là Thủ Đức), nơi cuối cùng của dãy Trường Sơn xanh mờ trong nắng. Trông về phía đông có cửa sông Sài Gòn nối với biển mênh mông. Cảm giác đứng giữa vùng rừng đồng bằng, tựa lưng vào núi và nhìn ra biển cả; thế đất đẹp, họ vững lòng “ghé” vào đây khai khẩn lập nghiệp.
Giữa cây cối rậm rạp, bắt đầu hình thành vài vệt đường mòn người dân lấy gỗ chen lẫn dấu chân muông thú: hổ, báo, hươu, nai…
Bình minh, những di dân thức dậy phát cây cối gieo trồng. Vượt dãy đồi thấp, theo lối mòn ướt đẫm sương đêm, rộn rã tiếng chim buổi sáng, vào thung lũng lấy củi, đi xa lên các ngọn đồi phía bắc lấy gỗ dựng nhà. Phụ nữ vào các khu rừng có nhiều cây lạ như xoài, chôm chôm, sầu riêng chín mọng thu hái.
Buổi trưa, họ nghỉ dưới tán lá rừng bên dòng nước, ăn vội nắm cơm và luôn tay đuổi muỗi. Trên cành cao, chú sóc tò mò nhìn họ rồi chuyền băng băng giữa các nhánh cây. Các chú khỉ con được mẹ cõng trên lưng, háo hức nhìn con người ngộ nghĩnh. Rất ít khi gặp chú khỉ độc bị đuổi khỏi đàn, khổ đau hằn vô số nét thành khuôn mặt nhăn nhó, nhìn họ với đôi mắt ngờ vực.
Không thơ mộng như ta tưởng. Nhiều vô kể, muỗi rắn rết, côn trùng. Gai góc rậm rịt cản lối đi. Hiểm nguy rình rập. Một lợn rừng xuất hiện theo sau đàn con là chuyện thường. Nhưng nếu chỉ là chú lợn lòi thì có thể bị nó rượt đuổi và húc cho đến chết. Ngồi dưới tán cây, bên cạnh, chú trăn mốc meo lẫn trong lá khô lim dim mắt chờ mồi. Ở trảng cỏ, hổ thường đến săn hươu nai gặm cỏ. Chỉ những con hổ già yếu sức hoặc lúc bất chợt gặp người mới tấn công con người. Nếu có người bị mất tích, bà con khẩn hoang bảo bị hổ vồ. Những con cá sấu mốc meo, có vẻ chậm chạp và mệt mỏi, lim dim mắt nằm chờ con mồi ở bờ sông mới là thủ phạm.
Tiếng vượn hú thảm thiết báo thời khắc đêm buông. Những cư dân đầu tiên đến khẩn hoang thấy trăng trong rừng sáng lắm. Sương đêm lạnh lẽo. Tiếng bước chân những con thú hoang giẫm lá khô bị lẫn vào vào tiếng kêu não nề của những con chim ăn đêm, chìm vào tiếng xào xạc của lá cây.
Từ rừng về muộn, băng qua các khe suối, giật mình bởi chú hổ no mồi, trầm tư nhìn ánh trăng giữa dòng. Ngửi thấy mùi lạ, chú đứng lên, vươn vai, gầm rung chuyển núi đồi và thong thả bước đi trong ánh trăng, lầm lũi, nhẹ nhàng, làm con người lầm tưởng Chúa sơn lâm hiền từ, cô đơn đến tội nghiệp.
Bị rơi vào sự tĩnh mịch của rừng đêm, họ sẽ cảm thấy sức mạnh huyền ảo ghê gớm tỏa ra từ miền đất mới. Bản năng trời cho trỗi dậy biến những người mở đất thành người hùng che chở cho những người yếu thế, dễ bị tổn thương. Ta gặp lại họ bây giờ là những hiệp sỹ đường phố Sài Gòn…Chúng ta thấy nó là một trong những yếu tố tự nhiên góp phần gắn bó những người tứ xứ đến lập nghiệp trong điều kiện gian khổ khó khăn của vùng hoang dã với nhiều miền sinh thái hợp thành khiến tính đa dạng hằn vào trong tâm trí nhiều đời cư dân bản địa...
Ban đầu, Sài Gòn có tên “Thành trong rừng” (tiếng Khmer Prey Nokor) do người dân bản địa gọi theo hiện trạng vùng đất nhỏ bé này. Đế chế Khmer sụp đổ, Nam Bộ thành đất vô chủ, về sau được sáp nhập vào Đại Việt nhờ công cuộc khai phá miền cực nam Bán đảo Đông Dương của chúa Nguyễn. Các nhà sử học cho là bắt đầu từ năm 1623.
Nam Bộ xưa được gọi là xứ Đồng Nai.
Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn: Năm 1698 xứ Đồng Nai có dân trên 4 vạn hộ. Chúng ta lập luận: phương tiện giao thông lúc bấy giờ chủ yếu bằng đường thủy, việc đi lại giữa các miền vô cùng khó khăn. Một đi không trở lại gần như hiển nhiên. Mật độ dân số rất thấp và địa phương nào cũng có vùng chưa được khai hoang. Với 4 vạn hộ thì thời gian đó, di dân tự do người Kinh cũng chỉ là một phần nhỏ trong nhiều sắc dân bản địa sống thưa thớt trên vùng rộng lớn này...
Tuy nhiên, căn cứ vào tính đoàn kết, thống nhất của cộng đồng đa dân tộc, nhiều tôn giáo ở Sài Gòn, có vẻ văn hóa khu vực này đã hình thành sớm hơn rất, rất nhiều…
*
* *
Năm 1674, Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên, phá vỡ "Lũy Sài Gòn" (theo Hán Nho viết là "Sài Côn"). Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "Gòn" và lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong sử sách.
Tôi sinh ra và lớn lên ở Đội 5, Nông trường Lệ Ninh, có Xóm Nen là cư dân bản địa. Về phía bắc, gần Lèn (núi đá) Áng Sơn có một Xóm Trại cũng ở ven sườn núi. Thầy Trần Văn Chường, chủ nhiệm cấp 3 của tôi, tác giả 7 cuốn sách lịch sử về huyện Quảng Ninh trong đó có cuốn Lịch sử Đảng bộ Vạn Ninh, Nhà xuất bản Thuận Hóa in năm 2019; có quê ở xã Vạn Ninh. Thầy cho biết: Khu vực này trước đây thuộc địa phận Xã Vạn Toàn, huyện Khang Lạc, Phủ Quảng Bình. Đến năm 1838, do kỵ húy, đổi tên thành xã Vạn Xuân.
Từ “xóm trại” có khắp mọi miền, có lẽ vì các ngôi nhà của những người khai hoang quây quần với nhau, tạm bợ như là lán trại. Từ “xóm trại” luôn gợi lên trong tâm tưởng chúng ta một miền đất mới giữa hoang vu núi rừng, nơi khỉ ho cò gáy và sự thần bí của núi non. Nó vừa như là e ngại do lo sợ khó khăn nhưng cũng có phần quyến rũ như việc đi thám hiểm đến những vùng đất mới… Đó là vì cha ông ta, xét cho cùng đều đi ra từ rừng. Khi đồng bằng trở nên chật chội, họ lại đi ngược về phía núi và âm vang của quá khứ cha ông được thức dậy trong tâm tưởng người khai khẩn.
Thầy Chường cho biết thêm: Xóm Nen, Xóm Trại, chủ yếu là bà con Vạn Ninh, xã cực nam của huyện Quảng Ninh (thuộc tỉnh Quảng Bình) đến khai khẩn. Vạn Ninh là quê của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Nhà thờ Tĩnh Quốc Công Nguyễn Hữu Dật thân sinh ra Nguyễn Hữu Cảnh nay ở thôn Bến, xã Vạn Ninh. Như đã nói ở trên, xã Vạn Ninh trước đây là một phần nhỏ của Xã Vạn Toàn thời lập đất. Nguyễn Hữu Cảnh là cháu đời thứ 9 của Nguyễn Trải.
Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Tần sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam, thấy nơi đây đất mở mang đến hàng ngàn dặm và có dân trên 4 vạn hộ. Để quản lý, Ông lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long và xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nghĩa là Quảng Bình mới). Lại đặt ra hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định); xin Triều đình bổ quan cai trị.
Đây là hành động pháp lý khẳng định chủ quyền của nước Đại Việt đối với xứ Đồng Nai.
Từ đó, xứ Sài Gòn trở thành huyện Tân Bình và huyện sở đặt ở làng Tân Khai (mé sông cầu Mống), là trụ sở của dinh Phiên Trấn. Những xóm làng đầu tiên của Sài Gòn là xóm Hòa, xóm Tân Khai, xóm Long Điền, xóm Than, xóm Bàu Sen, xóm Phú Giáo, xóm Lò Bún, xóm Cây Củi, xóm Rẫy Cải, xóm Ụ Ghe. Sài Gòn trở thành thị trấn đông đúc, hơn một vạn dân, trở thành thủ phủ dinh Phiên Trấn. Sau đó, Thành gia Định là thủ phủ của xứ Đồng Nai.
Võ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh là người có công mở rộng bờ cõi xuống phía Nam.
Được Chúa Nguyễn đồng ý, Nguyễn Hữu Cảnh đã tổ chức một cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử, đưa dân vùng Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Ngãi) vào khai phá vùng đất Đồng Nai.
Ông có công giữ vững miền biên thùy phía Nam.
Nhân dân Nam Bộ, Trung Bộ dựng vô số đền thờ Ông, không chỉ của người Kinh, cả người Khơ Me cũng có. Ở Quận 9, có đền thờ lớn ở Công viên lịch sử văn hóa dân tộc cạnh Đền Hùng. Ở quê, đền thờ nhỏ hơn; đang chuẩn bị xây đền thờ ở thôn Đại Phúc nâng số đền thờ của Ông ở Quảng Bình có ở 3 nơi.
*
* *
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn, cụ Đồ Chiểu có 2 câu thơ tả thực:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Bến Nghé, nơi buôn bán và giàu có, cả xứ Đồng Nai sầm uất nên cảm giác của cụ Đồ Chiểu: thôi hết thời vàng son.
Sau khi chiếm thành Gia Định, ngày 11/4/1861, Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới thành phố Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de Saigon) bao gồm cả vùng Sài Gòn và Bến Nghé. Đến ngày 03/10/1865, quyền thống đốc Nam Kỳ, chuẩn đô đốc Pierre Roze ký nghị định quy định lại diện tích của thành phố Sài Gòn chỉ còn 3km2 tại khu Bến Nghé cũ, đồng thời cũng quy định thành phố Chợ Lớn (tiếng Pháp: Ville de Cholon) tại khu vực Sài Gòn cũ.
Ngày 08/01/1877, Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh thành lập thành phố cấp 1 Sài Gòn, đứng đầu là Thị trưởng. Năm 1879, người Pháp đặt chức vụ Thống đốc Nam Kỳ để cai trị Nam Kỳ. Trụ sở của Dinh Thống đốc đặt tại Sài Gòn, về sau gọi là Dinh Gia Long, là nơi xây dựng Dinh Độc Lập.
Từ năm 1887 đến năm 1901, Sài Gòn là thủ đô của Liên bang Đông Dương. Mỹ từ “Hòn ngọc Viễn đông” do người Pháp đặt ra. Người Sài Gòn vốn thật thà, ghét khoe khoang, họ biết Sài Gòn chưa bao giờ đạt đến mức hoa lệ đến vậy.
Tôi sẽ nói thêm một chút ngoài sách lịch sử, những gì tôi biết sau hơn 40 năm, được ở nhiều miền đất nước và đến vài nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Lào, Campuchia; đi và ở nhiều nơi như thế, tôi mới có góc nhìn mới với miền đất này:
Người Pháp cai trị Xứ Nam Kỳ có khác chút ít với hai xứ còn lại. Họ dùng sức dân ta và trí tuệ của họ để đào kinh, mở lộ, xây dựng các công trình nhằm phục vụ cai trị và bóc lột. Tuy bóc lột dân ta thậm tệ, nhưng vẫn làm cho miền đất Nam bộ phát triển nhanh.
Lúc đó, Nam bộ gọi là “thuộc (địa của) Pháp”, được hưởng nhiều quy chế và văn minh của nước Pháp.
Đèn điện, xe đạp, tàu sắt, súng nổ, bánh mỳ, cây cao su…v…v… tràn vào. Phố phường Sài Gòn hình thành bởi trí tuệ người Pháp: kiến thức quy hoạch, kỹ thuật khảo sát, thiết kế thi công …, các vật tư xây dựng hiện đại nhập từ Pháp cộng với sức lao động người Việt Nam. Về quy hoạch, cơ bản là khoa học và hợp lý và cho đến nay, vẫn không bị thời gian làm cho lạc hậu.
Người Pháp đã hình thành bộ máy hành chính cho Sài Gòn theo mô hình nước Pháp văn minh. Cảnh sát, nhà nước hành chánh phương tây được lập ra với công báo, cho lập báo tư nhân. Ban hành các nghị định, quyết định để quản lý hành chính… làm cho xứ này hiện đại, văn minh nhất nước. Người dân có căn cước cũng được hưởng quyền công dân của Pháp, được lên tàu vào nước Pháp học hành, làm ăn, lập hội, đấu tranh cho dân chủ ngay tại “Chính quốc (nước mẹ đại Pháp)”… và đi các xứ thuộc địa của Pháp, các nước có quan hệ ngoại giao với Pháp…
Cụ Nguyễn Thông quê ở Long An được bổ nhiệm cai quản tỉnh Bình Thuận. Cụ hiến đất mở trường Dục Thanh (Trường giáo dục thanh thiếu niên). Tháng 8 năm 1910, Thầy giáo trẻ Nguyễn Tất Thành từ Huế vào dạy ở Trường này. Nửa năm sau (tháng 2 năm 2011), Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn xuất ngoại ở bến Nhà Rồng. Ai giúp và làm sao Nguyễn Ái Quốc làm được thẻ căn cước thì tôi không tìm được tư liệu về vấn đề này. Nhưng hồi đó, cũng như bây giờ, có tiền cũng không mua được thẻ căn cước đâu và căn cứ vào tính cách của Bác Hồ, sẽ không có chuyện lo lót để làm một việc gì đó.
Bờ đông Bến Nghé là Nhà Rồng nơi Bác Hồ ra đi. Có vẻ từ khi Bác xuống tàu đến nay, căn nhà đó không bao giờ thay đổi. Chúng ta có quyền lập luận rằng: Bác Hồ có thẻ căn cước để lên tàu chắc chắn là nhờ lòng tốt và sự giúp đỡ của vài người Sài Gòn. Nét văn hóa ngàn đời đó, đến nay vẫn không hề thay đổi.
*
* *
Sau năm 1956, tên gọi Sài Gòn được dùng chung để chỉ cả hai vùng đất này.
Người Mỹ đưa vào các tiến bộ kỹ thuật tốt nhất lúc bấy giờ và phương thức quản lý kinh doanh hiện đại. Họ tiếp tục xây dựng mô hình xã hội tự do nửa vời đề cao tính thực dụng với sự phồn vinh giả tạo do viện trợ của Hoa Kỳ tạo ra.
Các em bé bán báo Sài Gòn lúc đó cống hiến cho kho tàng ngôn ngữ tiếng Anh Mỹ từ “Number One – số một”. Nó có thể thay cho từ “The first – thứ nhất”. Tuy nó là một từ hoàn toàn sai về mặt ngữ pháp và từ vựng, nhưng nó dễ thương nên được lính Mỹ đem về chính quốc và nhanh chóng trở nên thông dụng.
Đó là sự hội nhập văn hoá của Người Sài Gòn với Hoa Kỳ mang tính chất thực dụng và giản tiện.
*
* *
Cuối năm 1987, Tôi được tòa soạn phân công viết bài bút ký về mảng kinh doanh của Người Hoa. Anh Tấn, chủ doanh nghiệp đón tôi ở Phân xưởng lông vũ. Lông mua về phân xưởng, được phơi. Bụi theo lông, ruồi nhặng bu theo, bốc mùi hôi thối. Anh dẫn tôi qua buồng đảo lông mù mịt bụi để đến buồng phân lông ở cuối dây chuyền. Khi mở cửa buồng, một màu trắng tinh khiết làm tôi lóa mắt. Những sợi tơ trắng mịn bám vào nhau thành chùm nho nhỏ cỡ hạt đậu, mềm và nhẹ. Đó là sản phẩm quý nhất của nghề lông vũ. Những sợi nhung gãy cần phải thổi bay đi để không giảm chất lượng của nhung. Cầm nắm nhung không trọng lượng, mềm, mượt và mát rượi bàn tay. Một vài chùm bung ra nhẹ nhàng bay theo nhịp thở. Nó là sản phẩm từ đống lông vịt ướt nhèm hôi hám, làm áo khoác cao cấp có tác dụng điều hoà nhiệt độ: đông ấm hè mát. Hiện chưa có loại vật liệu nào có những tính chất quý và trái ngược nhau như sản phẩm tự nhiên này. Mặc vào cảm nhận được sự êm ái, nhẹ nhàng.
Bài bút ký được đăng số xuân năm 1988. Anh Tấn trầm ngâm bảo văn chương viết hay, nhưng Anh cần các đối tác nước ngoài biết để tìm đầu ra cho mặt hàng này ở nhiều quốc gia. Tôi viết thư và gửi bài bút ký cho Nhà văn Trần Phương Trà lúc đó làm ở Ban văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam, nói rõ sự tình. Tuần sau, bài bút ký được phát trong buổi phát thanh bằng tiếng nước ngoài.
Bà con Việt kiều gọi điện kể cho anh Tấn đã nghe bài viết Phân xưởng lông vũ của anh. Sau đó, nhiều đối tác nước ngoài liên hệ với anh. Vậy là anh mời tôi đến thăm nhà anh ở quận 5. Căn nhà nhiều tầng. Một bà già móm mém hướng dẫn tôi cách dùng các thiết bị trong phòng khách, nhà vệ sinh... Bằng giọng trìu mến, anh Tấn gọi là Vú. Tôi tò mò hỏi Vú nuôi có phải là người thay mẹ cho anh Tấn bú thời bé phải không. Anh Tấn giải thích: dân Sài Gòn gọi những người ở với mình cho đến già mà không có gia đình là “Vú nuôi”; đối xử như mẹ ruột. Chờ bà cụ ra khỏi phòng, anh tiếp: khi mất đi gia đình lo tang lễ và thờ tự như người của gia đình. Miếng cơm ăn giữa chừng nghẹn lại. Thấy tôi buông bát, anh bảo ăn vậy được rồi. Lát nữa ra tiệm Tàu, ở đó mới có món ngon. Tôi thành thật hỏi anh có phải là người Hoa không. Lại phân bua vì tôi cảm nhận rõ ràng anh là người Việt Nam, dân Sài Gòn chính gốc.
Anh Tấn bảo mình là người Minh Hương. “Ngày Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, chúng tôi đều giận dữ như nhau và đều mong được cầm súng giành lại”. Người Minh Hương từ lâu đã trở thành người Việt nên cũng không còn tính là người Việt gốc Hoa. Còn người Việt Gốc Hoa là những người Trung Quốc đến lập nghiệp sau này.
Thấy tôi háo hức muốn biết về cộng đồng người Việt gốc Hoa, anh dẫn tôi thăm Đình Minh Hương ở giữa Chợ Lớn, (số 380 đường Trần Hưng Đạo, Quận 5), xây theo kiến trúc cổ Việt Nam, xong năm 1789, trùng tu năm 1839 và 1901. Mọi văn tự trong đình viết chữ Nôm, thờ danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh và những bậc tiền bối Minh Hương có công khẩn đất lập làng. Nơi đây năm 1698, hình thành làng Minh Hương ở Gia Thạnh, Chợ Lớn thuộc vùng Phiên Trấn Bến Nghé - Sài Gòn.
Chợ Lớn có nhiều di tích của người Hoa: Hội Quán, Chùa, Phố Cổ người Quảng, người Triều Châu, người Phúc Kiến… Chen lẫn trong đó là các di tích lịch sử của người Miên, người Chàm, người Hồi giáo, người Singapore, người Malaysia, người Pháp; tồn tại bình đẳng bên nhau. Sài Gòn là đô thị đa sắc tộc nhưng không có nạn phân biệt chủng tộc.
Người Việt gốc Hoa được trọng vọng do đóng góp nhiều cho nền kinh tế thời khai khẩn và cả trong chiều dài lịch sử.
Người Minh Hương trung thành với nhà Minh chống lại nhà Thanh, họ trốn xuống miền Nam, được người Sài Gòn cưu mang, trở thành người Việt Nam từ trong máu thịt. Lại đi theo chúa Nguyễn đánh Tây Sơn, có công lớn trong việc mở mang bờ cõi về phía Nam. Vì thế Vua Gia Long trao cho họ nhiều đặc ân như quyền tự trị, bớt thuế khóa, miễn phu dịch và không phải đóng thuế thân. Gần giống mô hình đặc khu hành chính thời nay…Các đời vua sau tiếp tục duy trì.
Ngày 06/6/1865, Pháp cho thành lập Thành phố Chợ Lớn. Tiếp tục các đặc ân, Chợ Lớn do các bang trưởng người Hoa quản trị về hành chính. Giao thương tự do, thuế thấp, người Pháp ít can thiệp. Những đặc quyền trên bị chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm bãi bỏ.
Từ tháng 12/1955 đến tháng 6/1956, Chính quyền ra 4 sắc lệnh quản lý Người Việt gốc Hoa. Đơn cử: ngày 21/8/1956, ban hành Dụ số 48 qui định Hoa kiều sinh trưởng tại Việt Nam là người Việt Nam, phải nhập quốc tịch Việt Nam. Những ai không nhập tịch thì phải xin hồi hương về Đài Loan trước ngày 31/8/1957. Ngày 29/8/1956 ban hành Dụ số 52 qui định Hoa có quốc tịch Việt Nam được tự do giao dịch, đi lại và buôn bán. Tên hiệu các cơ sở thương mại, văn hóa phải viết bằng Tiếng Việt.
4 sắc lệnh hành chính này khẳng định lại vị thế người Hoa sống ở miền nam Việt Nam là người Việt Nam. Nhưng gây hậu quả: Hoa kiều ồ ạt chuyển ngân, chuyển cơ sở sản xuất, kinh doanh qua Đài Loan, Hong Kong, Singapore... Nhiều thương gia chống đối bằng cách đầu cơ. Nền kinh tế miền Nam bị ảnh hưởng nặng nề.
Năm 1954, làn sống di dân từ miền Bắc mang vào nhiều doanh nhân. Họ chớp lấy cơ hội này để nhanh chóng thay thế Hoa kiều; khiến cơ hội làm ăn của Hoa Kiều trở nên khó khăn.
Người Hoa bình dân, lao động, vốn nhỏ, đã an cư lạc nghiệp nhiều đời tại Việt Nam và hầu hết bà con Minh Hương ở lại Việt Nam. Trải bao biến cố lịch sử, người Sài Gòn biết rõ: họ không phải là người Trung Quốc, họ là người Việt Nam có tổ quốc Việt Nam.
*
* *
Tháng 7/1976 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đổi tên Sài Gòn là Thành phố Hồ Chí Minh. Cách đặt tên này cũng tương tự với Leningrad và Stalingrad (tiếng Nga nghĩa là “thành phố Lenin/Stalin”). Hiện nay, tên gọi Sài Gòn vẫn được dùng phổ biến và được nhắc đến như tên chính thức thứ nhất. Trên thế giới, hiếm thành phố nào mang hai tên gọi khác nhau, ai cũng hiểu, cũng trân trọng như nhau. Tờ báo của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh mang tên “Sài Gòn Giải phóng”. Đến nay, khi viết tên Thành phố Hồ Chí Minh thì trong não người viết hiện lên chữ “Sài Gòn”. Khi trao đổi với nhau, người Việt Nam, người ngoại quốc vẫn dùng tên “Sài Gòn”. Do đó, tên cũ “Sài Gòn” không bao giờ cũ, luôn luôn thân thuộc.
Địa giới hành chính Sài Gòn có nhiều biến động, nhập tách. Đến tháng 12 năm 1978 huyện Cần Giờ, Tỉnh Đồng Nai được nhập về Sài Gòn và không còn biến động. Kể từ đó, Sài Gòn theo chiều dài khoảng 80km, theo chiều rộng khoảng 45km. Trung tâm địa lý chuyển từ khu vực ngã tư An Sương về quận 1, trùng hợp một cách kì diệu với trung tâm hành chính là Phường Bến Nghé, Quận 1.
*
* *
Người Sài gòn gọi các giao lộ có vòng xuyến là bùng binh.
Bùng binh Hồ Con Rùa là tên gọi dân gian của hồ phun nước nhân tạo nằm giữa nơi giao nhau của ba con đường Võ Văn Tần, Phạm Ngọc Thạch và Trần Cao Vân. Vào đầu năm 1976, tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ, khiến Sài Gòn có vẽ như trên trên bờ vực bạo loạn, lật đổ chính quyền.
Tháng 7/1979, Nhà văn Gabriel Garcia Marquez (Nobel văn học) cùng với vợ và hai con trai đến Việt Nam trong gần một tháng. Ông đã đi thăm nhiều nơi, có đến thăm Thành phố Hồ Chí Minh. Trở về Mexico, Marquez viết thiên phóng sự dài "Việt Nam nhìn từ bên trong" đăng trên báo Proceso. Ông nhận xét bi quan về Sài: "…Dưới thời Mỹ chiếm đóng, thành phố không còn giữ được bản sắc văn hóa của mình, trở thành một thiên đường nhân tạo được bao bọc bởi quân đội và sự trợ giúp của Mỹ, của hàng tấn đồ tiếp tế. Người dân Sài Gòn cuối cùng lại tin rằng đây là cuộc sống thực của họ. Vì thế, chiến tranh kết thúc khiến họ trở nên lạc lõng và xa rời thực tế, để rồi 4 năm sau khi người Mỹ cuối cùng rút đi, họ không thể gượng dậy được…”.
Ông nhìn thấy sau chiến tranh, giữ Sài Gòn tồn tại quả là khó khăn. Những người giàu tìm cách vượt biên, trộm cướp hoành hành, đời sống lao dốc. Các tổ chức phản động tìm mọi cách quay về trong tuyệt vọng: bị bắt đưa đi cải tạo… đã tạo hoàn cảnh giống nước sôi lửa bỏng.
Lớp người ở lại Sài Gòn năm 1975 là bộ đội. Họ góp phần xây dựng nên chính quyền mới.
Giai đoạn này Sài Gòn xuất hiện những kiến trúc sư đổi mới nổi tiếng: Cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh quê Hải Dương, Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt quê Vĩnh Long. Họ đã tạo tiền lệ cho lớp cán bộ tiếp theo cũng từ các địa phương khác đến như Nguyên chủ tịch nước Trương Tấn Sang quê Long An, Nguyên chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết quê Bình Dương…
Nhìn lại lớp cán bộ chủ chốt, đa số là người các tỉnh về lãnh đạo Sài Gòn.
Đại hội đại biểu đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ ba (1983), cố Tổng bí thư Lê Duẩn tham dự và đồng ý cho Sài Gòn được tự quyết định trên nhiều mặt. Quá xúc động, Đồng chí Bí thư thành ủy Nguyễn Văn Linh đứng dậy ôm Đồng chí Lê Duẩn và gọi bằng giọng trìu mến “Anh Ba muôn năm!”.
Sài Gòn gượng dậy từ cú sốc không viện trợ Mỹ bằng tự lực cánh sinh.
Những năm 2000, thành phố bước vào công cuộc đổi mới cơ bản về hạ tầng giao thông vận tải, tiến hành xây dựng và khởi công nhiều công trình trọng điểm như Đại lộ Nguyễn Văn Linh, Đại lộ Đông Tây, cầu Phú Mỹ…
Thành phố Hồ Chí Minh chỉ với 9 triệu dân (chiếm 10% dân số cả nước), diện tích 2 061km2 (chiếm 0,6% diện tích quốc gia) tổng sản phẩm năm 2018: 57 tỷ USD, đóng góp hơn 23% GDP cho kinh tế cả nước.
Vì cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh chỉ được để lại 18%. Tỷ lệ này ở các thành phố trên thế giới không dưới 30%...
Nhưng cũng do tỷ lệ này mà các công trình xây dựng khác của Sài Gòn sau năm 1975 không có gì khác biệt và cũng không tạo được dấu ấn theo thời gian. Không có tuyến cao tốc nào đi qua thành phố. Nó trở thành cản trở cho Thành phố Hồ Chí Minh nếu...
*
* *
Chúng ta nói đến cuộc di dân lần thứ tư của người nhập cư vào Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 2000; họ có mặt khắp nhà máy, công trường làm nên giá trị và sự phát triển. Họ mang đến đây tạp nham phong tục tập quán và lối sống xấu nhiều tốt ít; làm thay đổi văn hóa Sài Gòn rất nhiều. Không còn đơn vị chục là 12. Thay vào đó là những bảng hiệu cho đơn vị nửa kilogam xuất hiện ngày càng nhiều. Ví dụ 10 K (ngàn đồng)/ nửa ký cam. Việc nói một đằng làm một nẻo cũng nhiều hơn. Uy tín dần mất đi và trộm cắp vặt nhiều lên.
Năm 2006, tôi chuyển về Thành phố Hồ Chí Minh chuẩn bị cho dự án đường vành đai 3.
Xe buýt có từ rất lâu. Người soát vé xe buýt trước đây hỏi bà con: “Ai muốn xuống xe thì bước ra cửa”, hôm đó lại nói là “ai có nhu cầu xuống xe thì chuẩn bị…”… Xuống xe buýt, chân đau, tôi tập tểnh qua Ngả tư Hàng xanh. Một cô gái trạc tuổi 30 rẽ dòng xe đông đúc nài nỉ: “Anh để Em chở anh, Em không lấy tiền đâu”…
Thành phố Hồ Chí Minh lúc này có những nét kém phát triển: khu trung tâm cao ốc tài chính thương mại được bao quanh bằng các khu dân cư mới, lộn xộn nhếch nhác đang loang dần ra.
Buổi tối, Truyền hình dùng những câu đại để như "…không có động thái gì" thay vì nói như trước đây “…không làm gì”.
Cầm trong tay tờ báo, có những câu như "…nhờ đổi mới tư duy" thay vì nói giản dị “…do suy nghĩ đúng”...
Dân Sài Gòn chống đỡ âm thầm nhưng hiệu quả. Cảnh móc túi bị bà con hợp lực chặn bắt. Nhiều hiệp sỹ đường phố Sài Gòn hy sinh trong lúc bắt cướp nhưng không ai run sợ. Gặp buôn gian, bán lận, họ mua một lần và không quay lại. Vậy là sạt nghiệp.
Năm 2014, Tôi chuyển gia đình về sống ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Người dân xứ Đồng Nai cưu mang những người xa xứ đến cùng chung tay xây dựng quê hương. Cho đến nay, người Sài Gòn luôn chào đón, dành tình cảm và chở che cho những người di dân với tiêu chuẩn họ cần: sống thực lòng, chân tình, giản tiện. Họ cạnh tranh nhưng không phải là chiến tranh; để đất cho mọi người cùng mình tồn tại và phát triển.
Sài Gòn có cách thanh lọc tự nhiên nhằm để cho những người chân thật trụ lại được, cùng nhau làm nên bộ mặt Sài Gòn hiện đại và giàu có hiện nay.
Vốn nhà nước đổ vào các cơ sở hạ tầng, giao thông… ít bị lạc hậu theo thời gian. Nhưng đổ vào các công trình văn hoá dân dụng thì nhanh chóng lạc hậu: như nhà hát Hoà Bình, nhà thi đấu thể thao Phú Thọ… Các công trình của tư nhân hiện đại và đẹp hơn nhiều, mới thực sự tạo nên dấu ấn và tồn tại lâu dài như: tháp tài chính (Bitexco Financial Tower) 63 tầng ở trung tâm quận 1.
Chính những doanh nhân nhập cư như tỷ phú Phạm Nhật Vượng quê ở Hà Nội, cùng với Sài Gòn đã thực sự làm nên bước phát triển chiều sâu.
Khu vực ven sông Sài Gòn, phường 22 quận Bình Thạnh; trước đây là đầm lầy ven sông ken đầy nhà ổ chuột. Tập đoàn Vingoup của Phạm Nhật Vượng đã biến nơi này thành Vinhomes Central Park. Phức hợp được đầu tư hiện đại như một tiểu đô thị gồm có trung tâm thương mại, khu giải trí, hồ bơi rộng lớn, công viên, trường học, bệnh viện.... Điểm nhấn của khu: Tòa nhà Landmark (Cột mốc) 81 tầng cao 461,3m; là tòa nhà cao nhất Đông Nam Á cho đến thời điểm hôm nay. Chi phí xây dựng Landmark: 300 triệu USD (khoảng 7000 tỷ Việt Nam đồng). Vào buổi tối, Toà nhà Landmark cùng với sông Sài Gòn phản chiếu ánh điện lung linh làm tôi có cảm giác Thành phố đang vươn lên tầm cao mới.
Khi biết tôi mua quà thăm bệnh, người phụ nữ không quen chọn hàng, trả giá cho tôi. Cô ấy chỉ dẫn cặn kẻ: Thăm bịnh cho tiền, họ không dùng cho trị bịnh. Dành tiền đó mua những thứ người bệnh cần, ít nhưng phải tốt, phải để được lâu. Đừng vào thăm chỉ vì nghĩa vụ. Năng vào thăm. Không có điều kiện thì điện thăm hỏi hằng ngày...
Hằng ngày, đi về giữa Sài Gòn, tôi thường thấy người Sài Gòn cưu mang người gặp hoạn nạn. Sống lâu mới hiểu người Sài Gòn thông minh nên họ chọn cách sống chân thật, tránh khoe khoang. Họ ít tranh luận vì sợ dẫn đến tranh cãi để phân định thắng thua do đó không tìm ra cái đúng. Khi biết người nghe không thay đổi thì họ không nói. Khi nói thì họ rành mạch, có lý có tình. Họ sống thực tế nên có tư duy logic và coi trọng sự công bằng, cốt lõi của tư duy phản biện.
Nhưng đối xử với nhau thì bằng tấm lòng. Giữa những tấm lòng chân thành có vô vàn con đường. Những con đường đó đều về đến những con tim chân thật…
Sài Gòn có nhịp biến động tự nhiên nhanh, cuộc sống khẩn trương giữa vùng đất đa dạng sinh học và nhiều miền văn hóa tụ về; nhưng con người hành xử với nhau luôn chân thật và hướng tới lâu dài làm ta cảm nhận được một xã hội thân thiện./.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng tư năm 2020
LTH