Thân thương cây rơm quê nhà

Trở về với bất cứ một miền quê nào đó ta cũng dễ dàng bắt gặp hình ảnh thân thuộc của những cây rơm được chất đâu đó nơi góc sân, cạnh con ngõ, hay ở góc vườn. Rơm là phụ phẩm từ cây lúa sau khi đã tuốt sạch thóc, được phơi khô đánh đống và dùng để làm chất đốt trong nấu nướng, trong sinh hoạt hàng ngày. Rơm khô còn là nguồn thức ăn chính, là vật dụng ủ ấm của trâu, bò trong những ngày tháng mùa đông giá rét…

Quê tôi ở một vùng nông thôn thuần nông của vùng Đồng bằng Bắc bộ nên làng tôi nhà nào cũng có cây rơm to tướng. Nhà tôi cũng không là ngoại lệ khi cứ sau mùa gặt là cây rơm lại to cao ngất ngưởng, có khi còn chất cao hơn cả mái nhà vì nhà tôi làm hơn một mẫu ruộng nên lượng rơm là rất nhiều. Ngày trước, cứ nhà nào có cây rơm to là thể hiện sự no đủ, giàu có bởi lẽ có làm nhiều ruộng, cấy nhiều lúa thì đống rơm mới to, thóc đầy bồ, đầy hòm và dĩ nhiên là sẽ có gạo ăn quanh năm.

 

Như đã nói, cây rơm nhà tôi luôn to, cao nhất xóm và hầu như chẳng mấy khi nhà hết chất đốt, mặc dù tất tật các thứ đun nấu đều sử dụng đến rơm. Một năm có hai mùa lúa và cũng tương ứng với hai lần cây rơm được vun đống mới. Cây rơm nhà tôi được cất ở góc sân trước nhà. Mẹ tôi bảo rằng, từ thời ông bà nội tôi còn sống chỗ đó đã được sử dụng làm chỗ chất rơm, bởi nó gần gian bếp, giếng nước, và khá tiện dụng cho việc lấy rơm mang vào bếp để đun nấu. Bãi sân dùng để chất rơm đó khá rộng, ở giữ được chôn xuống một cây cột tre to, chắc chắn cao chừng gần chục mét. Tác dụng của cái cọc tre đó là làm cho cây rơm luôn đứng vững, không bị đổ xuống, kể cả khi có gió bão, hay việc rút rơm không đều ở các phía.

Mùa gặt đến, sau khi những đụn lúa gặt ở ngoài đồng về được tuốt sạch những hạt thóc thì rơm được mang ra ngõ phơi. Công việc phơi rơm khá là vất vả khi phải rắc rơm đều ra khắp mặt ngõ. Rồi thì, cứ một khoảng thời gian nhất định, tùy theo có nắng nhiều hay không, mà dùng gậy lật mặt dưới của các mảng rơm sao cho rơm khô đều. Nếu trời nắng to mà phơi ở những chỗ không có bóng cây che thì mẻ rơm chỉ hai nắng là khô và mang chất lên đống được. Nếu là những hôm râm trời, ít nắng thì có khi phải mất 3, 4 hôm mới phơi xong một mẻ. Chỗ phơi rơm ở thời điểm mùa gặt cũng luôn là vấn đề nan giải, vì nhà nào cũng gặt cùng một lúc nên nhiều khi con ngõ phía trước nhà luôn bị “chia” phần khoảng không gian cho từng hộ. Chẳng vậy mà, nhiều bữa gặt rộ, gặt nhiều diện tích một lúc, mẹ thường bàn với bố tôi mang máy tuốt, mang bạt dứa ra đồng làm… sân gặt và tuốt luôn tại ruộng. Việc gặt lúa ngoài đồng tuy có tiện thất đấy khi không phải khuân vác lúa về nhà, phơi rơm nhanh khô, thế nhưng cũng có điều bất tiện là, khi rơm khô phải mang về nhà chất đống, mà công việc dọn rơm khô là khá vất vả và rặm, rất ngại khi da thịt luôn bị rơm cọ  xát vào ngứa ngáy hết cả người.

Cây rơm nhà gắn liền với tôi suốt cả một thời tuổi thơ, khi không có ngày nào là tôi không phải ra cây rơm để rút rơm mang vào bếp nấu nướng. Gian bếp nhà tôi chật chội nên chỗ chứa rơm chỉ đủ cho việc đun nấu bữa một. Vì vậy mà cứ khi nào bắc nồi niêu xong là phải ra cây để rút rơm vào nấu. Những năm học cấp 1, cấp 2 là khoảng thời gian tôi gần gũi cây rơm hơn bao giờ hết. Hầu như một tháng có 30 ngày thì có đến 25 ngày tôi phải nấu cơm, đun nước, vì thế chả có ngày nào là tôi không phải ra cây rơm để rút rơm mang vào bếp. Đó còn chưa kể, những buổi tối trước khi đi ngủ mẹ thường sai tôi ra rút ôm rơm to mang vào cho trâu ăn, hay rải ổ cho đàn lợn nằm ở những tháng mùa đông giá rét… Rồi nữa, trò chơi trốn tìm buổi tối quanh chân cây rơm của trẻ con quê cũng đã là kỷ niệm đẹp khó mờ phai trong tôi. Ôi, có lẽ chẳng bao giờ tôi có thể quên được những đêm trăng cùng lũ trẻ trong xóm nấp sau chân đống rơm để chơi trò à, ập (một trò chơi dân gian của trẻ con Đồng bằng Bắc bộ mà người đóng vai đi tìm thấy phải đập tay vào vai người đi trốn mới gọi là bắt được). Những sợi rơm khô từ cây rơm cũng là thứ mà chúng tôi dùng bện mồi mang lửa ra đồng trong các buổi chăn trâu. Lửa từ mồi rơm giúp chúng tôi sưởi ấm, giúp chúng tôi có những đống lửa đốt đồng để nướng ngô, khoai và những con cua, con cá tươi rói vừa bắt ở dưới mương lên…

Xã hội phát triển, kinh tế gia đình ngày một khấm khá và khi tôi học lên cấp 3 thì cây rơm của nhà cũng như của những hộ nông dân khác trong làng, xóm không còn to nữa, thậm chí có nhà không còn cây rơm, bởi lẽ mọi người không chú trọng mấy về việc tích cóp rơm để làm chất đốt, cũng như làm thức ăn cho gia súc nữa. Mà mọi nhà đã đun bằng than tổ ong, bằng gas, bằng điện… Chẳng vậy mà khi gặt xong, phơi khô rơm thường được đốt luôn ngoài đồng để lấy tro bón ruộng, làm tăng độ màu mỡ cho đất để nuôi cây trồng ở vụ kế tiếp.

Cây rơm vẫn là hình ảnh thân thuộc ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam, thế nhưng với làng quê tôi thì hiện tại nó đã là hình ảnh vời xa chỉ còn trong ký ức mà thôi. Những cánh đồng lúa khi xưa giờ đã là khu đô thị, khu công nghiệp nên việc dân mất ruộng, mùa màng không còn nữa, và việc cây rơm bị xóa sổ là điều hiển nhiên. Vẫn biết rằng, làng quê trong đà đô thị hóa đã đủ đầy, sung túc hơn là điều mừng. Thế nhưng, khi trở về quê nhà không nhìn thấy cây rơm nơi góc sân trước nhà tôi như thấy thiếu thiếu một cái gì đó, bởi hình ảnh của nó là không bao giờ có thể mờ phai trong ký ức, vì nó quá đỗi thân thuộc và đã đi cùng tôi suốt những năm tháng tuổi thơ khi gia đình còn nghèo khó…/.

Nguyễn Long

(TP. Hồ Chí Minh)

Đ/C: Nguyễn Gia Long, số 58/24 khu phố 3, tổ 9 đường Tân Lập 1, phường Hiệp Phú, quận 9. TP. Hồ Chí Minh