Phút giây đầu tiên

Phút giây đầu tiên nào không đáng yêu, không tuyệt vời. Ngày mới của năm mới chính là tháp đỉnh tuyệt vời khai mở xuân đời tràn dự tưởng. Ánh Đông của ngày đầu tiên từ đêm trừ tịch thẳm sâu chừng như bừng rạng theo đường bay lượn pháo hoa. Sắc màu lan tỏa, lan tỏa … Ánh Đông ấm áp, hồng tươi theo từng cánh én, đàn én dặt dìu mang Xuân mới về…Rồi dặt dìu mùa Xuân theo én về/ Mùa bình thường mùa vui nay đã về… ( Mùa xuân đầu tiên – Văn Cao)

GIAO THỪA, PHÚT GIÂY ĐẦU TIÊN XUÂN MỚI

Tản văn

Đêm trừ tịch. Thăm thẳm màn đêm không một ánh sao nhấp nhánh.

Bầu trời dường như cao, rộng  thênh thang hơn.

Nhịp vần xoay của đất trời, thầm lặng mà mãnh liệt, từng sát na, từng sát na thời gian chảy trôi. Chợt dậy lên trong hồn bao niềm xao xuyến. Cuộc bàn giao – nối tiếp, đến  - đi của vũ trụ đang diễn ra.

Tĩnh bao trùm mà chẳng lặng chút nào.

Giao thừa. Ngày thứ 365 sắp tàn và ngày đầu tiên của năm mới sẽ được định vị ở cái thời khắc đặc biệt này.

Bàn thờ gia tiên khắp nơi, mọi miền - đã tinh tươm, bộ lư đồng ánh bóng, bánh mứt thơm bên mâm ngũ quả truyền thống. Khung ảnh ông bà trên trang thờ mang vẻ tươi mới hơn mọi ngày vì đã về với con cháu từ bữa cơm cúng rước giữa ngọ 30 Tết  theo tục lệ. Tất nhiên không thể thiếu một cành mai, nhành đào đã lấm tấm nụ chờ khai nở. Ở một góc nhỏ vùng quê mới, tôi gọi thằng con út dọn bàn ở trước nhà chuẩn bị lễ cúng mà chợt bồi hồi. Út sắp bước sang tuổi mười tám rồi đấy. Phổng phao, cao to như một sự kế thừa. Con sắp dọn các thứ như hồi đó Nội dặn ba ngày trước là được. OK, con nhớ. Nó cười giống ông như đúc. Tôi bước ra sân nhìn trước nhà. Gió nhẹ thổi đưa mơn man. Nhà đối diện. Nhà sát bên bàn cúng cũng dọn bày. Không gian mênh mang, đường phố hút dài thinh vắng tàng ẩn sức xuân đất trời, khát vọng tươi mới.

Mâm cúng đất trời giản đơn thôi. Hoa tươi vài nhánh đón lộc mới sang. Đĩa quả ngọt lành đất mẹ dâng tặng cho đời. Trà thơm hương tỏa. Quả dừa gọt vỏ sạch tươm, nước vào độ thanh vị, biểu tương cho sự thanh khiết đón mừng vẻ thanh tân vũ trụ. Giản đơn mà trang trọng, thiêng liêng.

Con lên đèn, chuẩn bị lễ giao thừa đi. Ánh sáng từ chiếc đèn nhỏ lung linh. Ba nén nhang đỏ ngọn khấn ước đất nước yên  bình,an khang tài lộc đầy nhà, con cháu vượng tiến. Thằng con út đứng sau tôi đang xanh lời ước. Tròn mười năm cha tôi mất, vào thời khắc năm cùng tháng tận cha đều dâng lễ thành tâm trước sân nhà dưới tàn xum xuê cây xoài cát do ông vun trồng khi rời bỏ thành phố về quê mới những năm 71, 72. Một thoáng đã 40 năm hơn. Cây xoài cho bao mùa quả chín đã phải đốn bỏ nhường cho đường phố rộng thênh. Vẫn còn đó nghiêng dáng cha tôi đang lễ giao thừa. Vẫn còn đó lớp lớp người đi trước bảo vệ, dựng xây Quê hương, Đất nước này. Nhang tỏa bay những vòng thơm dịu. Bay bay lên cao...Đêm mênh mang màn tối tận cùng đêm … Chợt ùng oàng bùng sáng liên tiếp những bông pháo hoa đủ sắc màu từ phía tòa Nhà Hành chính trung tâm. Trời đêm rực sáng, lung linh. Huyện cũng vừa sang tuổi 20 thành lập. Hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng trong  kháng chiến và thời đổi mới. Và mới đây là một trong hai đơn vị đầu tiên Huyện Nông thôn mới của Tỉnh, của cả nước. Xuân Lộc tràn lộc xuân. Trẻ trung, năng động. Công viên - Đài Tưởng Niệm huyện điểm nhấn là nền xanh mượt những khóm cây, hàng kiểng rực rỡ đèn nhấp nháy. Cổng chào Xuân Ất Mùi cách điệu dáng lượn bay đầy ấn tượng.

Đường phố mấy hướng nhộn nhịp hẳn lên. Xe và người đông ken thưởng lãm pháo hoa. Những cánh tay, những ánh mắt ngời ngóng theo ánh bừng hoa nối hoa tỏa bung, lượn - roi trên nền đêm trừ tịch. Nhạc vang vang, rộn ràng tươi thắm giai điệu xuân…Chúc mừng năm mới. Mừng Xuân mới… Ngày mới đầu tiên của năm bắt đầu từ phút giây này. Giai điệu dặt dìu về phút giây đầu tiên của nhạc sĩ tài hoa từ Thiên Thai đến Tiến quân ca khiến lòng xuyến xao niềm yêu đời , yêu người , yêu quê cha, đất tổ chứa chan không thôi.

Vâng, đi từ Tiến quân ca để tới hôm nay. Dịu vợi ngàn trùng. Dân tộc gian nan sao kể xiết. Hà Nội - Thăng Long. Thành phố mang tên Bác. Tổ quốc lồng lộng màu cờ. Ở Long Sơn - Lũng Cú. Tận Đất Mũi - Cà Mau vời vợi kiêu hùng. Những nụ mai đã chớm điểm vàng/ đào phớt hồng e ấp chào xuân nơi biên giới, hải đảo dẫu sóng gió bạt rừng núi, trùng khơi...

Tổ quốc lộng bay. Xuân mới dạt dào sang. trong những phút giây linh thiêng đầu tiên...

Phút giây đầu tiên nào không đáng yêu, không tuyệt vời. Ngày mới của năm mới chính là tháp đỉnh tuyệt vời khai mở xuân đời tràn dự tưởng. Ánh Đông của ngày đầu tiên từ đêm trừ tịch thẳm sâu chừng như bừng rạng theo đường bay lượn pháo hoa. Sắc màu lan tỏa, lan tỏa …

Ánh Đông ấm áp, hồng tươi theo từng cánh én, đàn én dặt dìu mang Xuân mới về…Rồi dặt dìu mùa Xuân theo én về/ Mùa bình thường mùa vui nay đã về… ( Mùa xuân đầu tiên – Văn Cao).

Xuân Lộc, Giao thừa Xuân mới

 

TÌNH VÀ THƠ  XUÂN NĂM MÙI

Tạp văn

 

1.

N hững ngày đầu xuân mới, còn gì thú hơn là chuyện phiếm về năm mới sang. Hương đất trời dậy nồng nàn trong chén rượu ngày xuân. Vũ trụ vần xoay, khó ai ngăn được : Ngọ đi - Mùi đến...Năm Mùi - năm Dê, tuổi Dê, nghe chẳng chút thanh tao...Nhưng Xuân năm Mùi nay cũng có nhiều vần thơ xuân, chuyện tình thi vị.

Trong 12 con giáp, Dê - Mùi ở vị trí thứ 8, năm biểu tượng sức sưng mãn của Đời - Người ấm no, hạnh phúc.

Năm Ngọ, mã đáo thành công

Năm Mùi, dê béo, rượu nồng phủ phê (Thơ ca dân gian)

Sự sung mãn được khắc nét ở bộ sừng, bộ râu  mà dê đực dê cái đều có:

Tuổi Mùi là con dê chà

Có sừng, có gạc, râu ra um sùm (Vè 12 con giáp)

Ấn tượng  "râu um sùm' dễ gợi liên tưởng đến thói bờm xơm, tính dê xồm đùa cợt, ghẹo tình của hạng người xấu tính đối với phái nữ khiến người có năm sinh Mùi được cho là ít nhiều ẩn chứa máu cụ Dê mặc dù cho đến nay chưa bằng chứng khoa học nào liên quan! Thực ra dê là loài có ích cho con người bản chất hiền lành, cho  thịt ngon, sữa ngọt. Đặc biệt nó tràn trề sinh lực dục tình (một dê đực đáp ứng cho hàng chục dê cái) nên người đời lên án, phê phán những kẻ có thói dê - Bùi Kiệm:

Còn người Bùi Kiệm máu dê

Ngồi chai bộ mặt như giề thịt trâu

(Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)

Đậm đặc là trong thơ ca dân gian: Dê xồm ăn lá khổ qua/ Ăn nhiều sâu rọm, chết cha dê xồm; Phụng hoàng đậu nhánh sa kê/ Ông thần không vật mấy thằng dê cho rồi vv..vv.

Nhưng cũng trong dòng thơ dân gian từ dê biến âm thành de, ve (tán tỉnh, ve vản) đậm tình, quyến rũ :

- Cam sành lột vỏ còn the

Thấy em còn nhỏ anh de để dành

- Thằn lằn tắc lưỡi mái rui

Mạ ơi anh nớ ve tui mạ nì (Ca dao)

"anh de để dành", " anh nớ ve tui" - những lời  ăn tiếng nói tượng hình tạo niềm khoái cảm thẩm mỹ không chê vào đâu được như Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương từng được người đời nhắc đến hai câu thơ tả chú dê con tung tẩy hồn nhiên:

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.

2.

Dê sung tình và cũng rất phàm ăn. Ngay cả thói háu ăn đó của chàng dê cũng thành cầu nối loan tình cho bậc Quân Vương với cung tần, mỹ nữ. Phải duyên hương lửa cùng nhau/ Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào...( Nguyễn Gia Thiều) từ điển tích của Tấn Võ đế (Trung Quốc) mỗi đêm ngồi xe dê dạo hậu cung, xe dừng lại cửa phòng nào (ăn lá dâu non trước cửa) thì vua sẽ  ban ân sủng với cung phi đó. Thật không khác nào trò chơi "xổ sổ tình"! Do vậy, không được thỏa  khát vọng "tựa mạn thuyền rồng" dù chỉ một đêm người cung nữ tràn sầu thảm:

 

Thâm khuê vắng ngắt như tờ

Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo.

Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ

Dấu dương xa (xe dê) đám cỏ quanh co.

( Nguyễn Gia Thiều)

Nỗi thảm tình ai oán về thân phận người phụ nữ chôn vùi tuổi xuân nơi cung cấm - tư tưởng cốt lõi làm nên giá trị nhân văn khúc ngâm (Cung oán ngâm khúc) vượt thời gian.

Khúc hát "Bách Lý Hề năm bộ da dê" lại mang chứa một cuộc đoàn viên cảm động. Trên bước đường lập chí  gian nan, Bách Lý Hề ( được chuộc về từ nước Sở bằng năm bộ da dê) - thời Xuân Thu trở thành Tướng quốc giúp Tần Mục Công dựng nghiệp lớn lúc đã hơn 70 tuổi, say mê công danh quên mất người vợ thuở hàn vi. Chỉ khi nghe điệu sầu thương cất lên của người vợ năm xưa -  Đỗ thị:

"...Bách Lý Hề, năm bộ da dê! Nhớ ngày nào cùng nhau  ly biệt/ Mổ con gà mái ấp. thổi nồi cơm gạo vàng...Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao? Bách Lý Hề, năm bộ da dê ! Nhớ ngày xưa tiễn chàng ra đi, thiếp tôi nưóc mắt chứa chan! Tới bây chừ, thấy chàng ngồi đó, thiếp tới ruột đứt đòi cơn ! Chừ thương thì thương... Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao?", Ngũ Cổ đại phu - Bách Lý Hề (Ngũ Cổ/ năm bộ da dê) mới trùng phùng trong nước mắt với với vợ con.

Còn ở nước ta, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), đỗ Trạng Nguyên năm Ất Mùi (1535) dân gian quen gọi là Trạng Trình, là nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Phẩm hạnh trung trinh, có tài thơ văn và ông còn được lịch sử ghi nhận về tài tiên tri không ai sánh kịp. Ở góc độ đời riêng, người đời còn truyền mãi giai thoại tình với người vợ thứ ba của quan Trạng Ất Mùi này. Một lần cùng bạn hữu lên núi Đồ Sơn ngắm cảnh vịnh thơ, sau khi xuất khẩu bài thơ "Hải uy" (Biển mạnh), Nguyễn Bỉnh Khiêm còn cao hứng ra vế đối: Trai Đồ Sơn đứng núi Đồ Sơn, Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt. Trong khi các đang bạn lúng túng tìm ý, từ thì ở rặng cây gần đó một hầu gái bước ra đưa cho ông một tờ giấy nhỏ ghi câu đối:  Gái Minh Nguyệt ngồi trong cung nguyệt, Nguyệt nguyệt bằng quân tử trượng phu. Đọc xong, quan Trạng Nguyễn vô cùng kinh ngạc vì đối quá chuẩn! Cảm sắc, mến tài chủ nhân của câu đáp đối, Nguyễn Bỉnh Khiêm dò tìm và đưa Minh Nguyệt về làm thiếp. Bất chợt mà lại nên duyên chồng vợ,  chuyện tình tri kỉ thi ca thơ mộng không kém mối tình "Nguyễn Trãi - Thị Lộ"! Đáng tiếc là duyên tình Nguyễn Bỉnh Khiêm và người bạn đời Minh Nguyệt đằm thắm mặn nồng chẳng được lâu. Về sau ông chiều ý cho dựng ngôi chùa cách không xa nơi ông dạy học, ẩn cư - am Bạch Vân để bà hướng Phật, tu tại gia. Trong chùa có trồng hai gốc mai, nên được gọi là chùa Song Mai (1). Khói sương tình mộng giữa hai người vẫn lãng đãng. Hôm Nguyễn Bỉnh Khiêm đến dự buổi khánh thành chùa, bà Minh Nguyệt mắt  hoài vọng phía biển quê nhà ra vế đối ẩn nỗi trách thầm  Hải bất ba đào, khan hải tĩnh (Biển không có sóng, biển thành biển tĩnh). Nghe xong mà lòng xôn xao, quan Trạng Nguyễn  liền tỏ bày niềm riêng bằng cách chỉ tay xuống hồ nước trước chùa đáp lại: “Hồ vô minh nguyệt, hồ bán mê” (Hồ không có ánh trăng, hồ thành mờ ảo).  Quả là "Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở" ( Ngập ngừng - Hồ Dzếnh), thiên tình sử của quan Trạng Ất Mùi vẫn ánh lánh trên lớp bụi thời gian dẫu đã trôi qua gần 500 năm!

3.

Xuân và Tình  hai mặt không thể tách rời - nguyên lý căn cơ  làm nên cõi nhân gian nổi chìm dâu bể/ hồng ngọc, lụa là. Năm mới - năm Mùi đến, hẳn ai trong chúng ta đều chung khát vọng " nhật nhật tân, hựu nhật tân", xuân mới, ngày ngày lại mới, mới hơn. Tình yêu Xuân, yêu Người, yêu Đời càng dạt dào tình long lanh xuân trong Thơ. Những vần thơ của nhà thơ Huy Cận (1919 - 2005), một trong những đại thụ của nền thơ hiện đại nước nhà và cả Phong trào Thơ Mới (1932 -1945) ở chủ đề Xuân  sáng trong, phơi phới xuân qua các bài thơ  Áo Xuân, Xuân, Trăng Xuân, Xuân Ý...

Cây xanh cành đẹp xui tay với;

Sông mát tràn xuân nước đậm bờ (Xuân)

Xuân rạng lối, tràn bờ, chúng ta hãy "vận tấm áo xuân"  mà 7 thập niên trước người thơ sinh năm Kỷ Mùi (1919) của Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự (1940 - 1942)  thong dong dạo đất trời nguyên đán cất điệu "tâm tư ngào ngạt" chào xuân mới đắm mê:

Ta vận tấm xuân đi hớn hở

Tâm tư ngào ngạt hiến dâng đời

Thân cũng hát lừng cao nhịp lửa

Hoa thiên thu hẹn nở cùng môi. (Áo Xuân)

Cuối Chạp 2014

NGUYỄN NGUYÊN PHƯỢNG

(1)  Hiện nay chùa là một trong chín điểm thuộc Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được xây dựng tại làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

(2) Các bài tham khảo:

- "Con dê trong thơ ca" - Việt Chung

- Bách Lý Hề - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

- "Những mối tình tuyệt đẹp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm" -  báo TTVN