Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên và người vợ đẹp, tài hoa (Đăng TPM Xuân Ất Mùi)

GS.TS. Nguyễn Văn Huyên (1905 - 1975) - nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam; Bộ trưởng Bộ Giáo dục từ 1946 -1975. Ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về khoa học xã hội và nhân văn; Huân chương Độc lập hạng Nhất và nhiều phần thưởng cao quý khác. Góp phần vào sự nghiệp lớn của ông là người vợ đẹp, tài hoa – bà vi Kim Ngọc. Bà là kỹ thuật viên đầu tiên của Bộ môn Ký sinh trùng, Trường Đại học Y Hà Nội; con gái của Tổng đốc Vi Văn Định; chị gái bà Vi Kim Phú, vợ Giáo sư Thạc sĩ y khoa Hồ Đắc Di (1901-1984), cựu Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội; cô ruột bà Vi Nguyệt Hồ, vợ Giáo sư y khoa Tôn Thất Tùng (1912- 1982), cựu Giám đốc Bệnh viện Việt Đức. Ông bà có với nhau 4 người con. Các con, cháu của họ đều là những trí thức lớn: Chị cả là Nguyễn Kim Nữ Hạnh (1937-2010) (hay Nguyễn Kim Hạnh) nguyên kỹ sư thông tin của Tổng cục Đường sắt, tác giả cuốn hồi ký "Tiếp bước chân cha"; Nguyễn Kim Bích Hà (hay Nguyễn Bích Hà), Phó giáo sư, Tiến sĩ hóa học, Hiệu trưởng Trường dân lập Nguyễn Văn Huyên (Hà Nội); Nguyễn Kim Nữ Hiếu, Đại tá, Phó giáo sư, Tiến sĩ y khoa, Thầy thuốc nhân dân, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108; Nguyễn Văn Huy, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Giám đốc bảo tàng dân tộc Việt Nam. Con rể là GS.TS.NGND. Nguyễn Lân Dũng (chồng bà Nguyễn Kim Nữ Hiếu); cháu ngoại là PGS. TS. Nguyễn Lân Hiếu v.v. Họ còn có người con nuôi rất nổi tiếng là GS. Nguyễn Huy Phan.


BBT, CTV và bạn đọc TÁC PHẨM MỚI thăm Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên, tháng 12/2014

 

 

Cả đời cống hiến cho sự nghiệp khoa học và giáo dục nước nhà

Nhà bác học, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên sinh ngày 16/11/1905 tại phố Thuốc Bắc, Hà Nội, trong một gia đình có cha là công chức. Lên 8 tuổi, ông mồ côi cha; được chị gái là Nguyễn Thị Mão (là vợ ông Phan Kế Tọa, Khâm sai Bắc bộ trong chế độ cũ, sau này là Phó Thủ tướng Chính phủ nướcViệt Nam dân chủ cộng hòa), tốt nghiệp khoá 1924-1927 Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương - là nữ giáo viên đầu tiên của Việt Nam – nuôi ăn học. 18 tuổi, ông cùng người em là Nguyễn Văn Hưởng đi học ở Pháp. Năm 20 tuổi ông đỗ tú tài. Một năm sau ông đỗ cử nhân văn chương, năm tiếp theo ông đỗ thêm một bằng cử nhân Luật. Ngày 17/2/1934, Nguyễn Văn Huyên trở thành người Việt Nam đầu tiên bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ văn khoa tại Đại học Sorbonne, Paris - một trường đại học lớn và uy tín của Pháp. Luận án chính của ông là “Hát đối của nam nữ thanh niên ở Việt Nam” và luận án phụ “Nhập môn nghiên cứu nhà sàn ở Đông - Nam Á”. Hai luận án của ông được Hội đồng giám khảo đánh giá là “một sự kiện đáng ghi nhớ” trong lịch sử nhà trường.

Sau khi đạt tới đỉnh cao về học vấn, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên trở về Việt Nam, dạy học tại trường Bưởi. Là một nhà trí thức yêu nước, ngay từ năm 1938, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên đã tham gia Hội truyền bá Quốc ngữ; từng ký tên vào bức điện yêu cầu Vua Bảo Đại thoái vị, trao quyền lãnh đạo đất nước cho Việt Minh…

Tháng 11.1946, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không phải là Đảng viên, ông vẫn được tín nhiệm giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục 29 năm (từ năm 1946 đến năm 1975). Trong thời gian làm Bộ trưởng, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đã có những đóng góp quan trọng và quyết định trong xây dựng nền giáo dục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tôn chỉ và tâm huyết của ông trong sự nghiệp xây dựng nền giáo dục được thể hiện qua bài diễn văn nổi tiếng đọc trong lễ khai giảng năm học đầu tiên của Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15/11/1945: "Trong buổi lễ hôm nay, anh em giáo sư và sinh viên chúng tôi muốn tỏ rõ cho thế giới biết rằng trong giờ phút nghiêm trọng của tiền đồ Tổ quốc này, dân tộc Việt Nam, ngoài công cuộc đấu tranh bằng xương máu trên chiến địa cũng nỗ lực tham gia vào công cuộc tiến triển văn hoá của nhân loại..."

"...Chúng tôi muốn rằng nền đại học mới này là một lực lượng mạnh trong những lực lượng của Việt Nam. Chúng tôi muốn nó làm một thành luỹ để trường kỳ kháng chiến phục hồi hoàn toàn lãnh thổ, và giải phóng tinh thần cho dân tộc chúng tôi là một dân tộc văn hiến có ngoài nghìn năm lịch sử độc lập và đã tự gây nên một nền văn minh đặc sắc trên ven bể Thái Bình Dương này."

Có thể nói, trên cương vị của mình, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đã có công lớn trong việc xây dựng nên nền quốc học nhân dân, xóa bỏ được tình trạng 95% dân số mù chữ; tổ chức một mạng lưới trường học trên mọi vùng của miền Bắc, qua đó dựng nên một hệ thống giáo dục khá hoàn chỉnh, giáo dục thế hệ trẻ nước nhà trở thành những người công dân tốt, cán bộ tốt, phục vụ đắc lực công cuộc giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc và xây dựng CNXH ở miền Bắc.

Bên cạnh sự nghiệp giáo dục, Nguyễn Văn Huyên còn là người đặt nền móng cho ngành nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Từ năm 1944, ông đã công bố cho độc giả, nhất là độc giả phương Tây, biết rằng nhân dân Việt Nam đã phát triển văn hóa của mình đậm đà bản sắc dân tộc, đạt đến đỉnh cao như ông đã đặt tên cho cuốn sách dày 280 trang xuất bản năm đó là “Văn minh Việt Nam”. Nền văn minh này dựa vào một kết cấu xã hội hết sức đặc thù là Nhà - Làng - Nước, tạo nên một sức mạnh tinh thần vô giá về văn hóa, xã hội, con người Việt Nam.

Ông có nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng, góp phần khẳng định người Việt Nam có tín ngưỡng riêng của mình, thể hiện qua việc thờ thành hoàng như Phù Đổng, Tản Viên, Chử Đồng Tử… Từ luận án tiến sĩ đến những công trình công bố về sau, khẳng định hướng nghiên cứu của ông là: văn học dân gian, lễ hội truyền thống, kiến trúc dân tộc, địa lý học, lịch sử, cấu trúc giai tầng trong xã hội nông thôn… Đọc các tác phẩm của ông, các nhà nghiên cứu đều khâm phục, tác giả đã thể hiện một phương pháp khoa học và văn phong mẫu mực. Một đặc trưng mẫu mực nhất là những triết lý nói về cuộc sống của dân tộc Việt Nam, như qua mô tả lễ hội Phù Đổng, ông đã đi đến khái quát rằng: trung, hiếu, thuận, nghịch là nét đặc trưng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.

Kết luận tổng quát được rút ra từ tất cả các công trình nghiên cứu của ông, đã khẳng định sức sống, của các dân tộc ở nước ta qua sự lao động hết sức sáng tạo của mình, “tự tạo lấy cuộc sống của riêng mình”, “không chịu sao chép”, máy móc của bất kỳ ai.

Bộ trưởng trân trọng các bậc trí thức

Tư tưởng dân chủ để tập hợp đông đảo trí thức và các tầng lớp xã hội khác cùng đóng góp trí tuệ xây dựng nền giáo dục của Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đã được hình thành ngay từ buổi đầu cách mạng và xuyên suốt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Dưới đây là những mẩu chuyện về sự trân trọng của ông với những bậc trí thức - hạt nhân của giáo dục đại học. Các văn bản còn lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia.

Chế độ di chuyển cho Giáo sư Đặng Thai Mai

Năm 1950, GS Đặng Thai Mai (1902-1984) khi đó đang phụ trách Ban Sư phạm Đại học Văn khoa tại Thanh Hóa được điều động ra Bộ Giáo dục. Được biết sức khỏe của ông không được tốt, mặc dù lúc đó chưa đến 50 tuổi, ngay lập tức, Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đã có công hàm số 73 P2/CH ngày 29 tháng 8 năm 1950 gửi Bộ Tài chính đề nghị chế độ di chuyển cho Giáo sư. Nội dung bức công hàm viết:

“ Vì số học sinh Ban Sư phạm Đại học Văn khoa ở Liên khu 4 ít và vì ở xa, Ban này sẽ gặp nhiều sự khó khăn trong khi tiến hành công việc, nên bản Bộ đã quyết định kể từ niên khóa 1950-1951 sẽ tạm thời không mở Ban này trong Thanh Hóa nữa.

Ông Đặng Thai Mai, giáo sư phụ trách Ban Sư phạm Đại học Văn khoa, sẽ được điều động ra ngoài này để giúp việc Bộ Giáo dục, hoặc dạy học tại trường Đại học Văn khoa ở Việt Bắc hoặc dạy tại các lớp Dự bị đại học (Ban Văn học).

Ông Đặng Thai Mai hiện nay người yếu không đi bộ được, cần cáng và khi ra, gia đình cũng theo ra.

Để ông Đặng Thai Mai có đủ điều kiện và phương tiện di chuyển cùng với gia đình ông, bản Bộ đề nghị quý Bộ trợ cấp đặc biệt cho ông ấy một số tiền 10 vạn đồng.

Trân trọng yêu cầu quý Bộ thỏa thuận và lập một ủy ngân 10 vạn đồng cho UNKCHC tỉnh Thanh Hóa để cấp cho ông Đặng Thai Mai.”

Điều động Giáo sư Lê Văn Thiêm ra Bắc

GS. Lê Văn Thiêm sinh ngày 29 tháng 3 năm 1918. Ông là người Việt Nam đầu tiên có bằng Tiến sĩ Toán học. Năm 1949, theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, GS. Lê Văn Thiêm đã trở về nước qua đường bay Paris - Băng Cốc, rồi từ Băng Cốc bằng đường bộ qua Campuchia về rừng U Minh, khu 9 miền Nam tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác tại Sở Giáo dục Nam Bộ từ ngày 19.12.1949. Nhận rõ vai trò của những trí thức được đào tạo cao cấp ở nước ngoài đối với sự phát triển của giáo dục đại học, đầu năm 1950, Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đã có công hàm số 16/P3 CH ngày 25 tháng 1 năm 1950 gửi Phó Thủ tướng Chính phủ đề nghị điều động ông Lê Văn Thiêm ra Bắc giúp cho Bộ Quốc gia Giáo dục; đồng thời đề nghị Bộ Tài chính ấn định số tiền phụ cấp cho các kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài về nước phục vụ. Đầu năm 1951, trường Khoa học thực hành cao cấp được thành lập và GS. Lê Văn Thiêm được bổ nhiệm là Hiệu trưởng.

Với Giáo sư Đặng Văn Ngữ

Ngày 14/2/1950 Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên có công hàm số 21/P2 CH cho Phó Thủ tướng yêu cầu để ông Đặng Văn Ngữ, Y khoa bác sĩ vừa ở Nhật Bản về theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, làm giáo sư dạy trường Đại học Y khoa và phụ trách lập Phòng Thí nghiệm tại trường. Ngày 24 tháng 6 năm 1950, ông gửi Công điện cho UBKCHC Liên khu 4 để hỏi về trường hợp Bác sĩ Đặng Văn Ngữ. Nội dung Công điện viết: “Tiếp công điện số 130-CĐ/CH ngày 11-3-1950 yêu cầu Ban điện cho biết Bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã lên đường ra Việt Bắc chưa (dấu hỏi) Nếu vì vấn đề tài chính mà bác sĩ chưa khởi hành được thì Ban hết sức giúp đỡ để bác sĩ có đủ điều kiện ra Bắc (chấm) Bộ Tài chính cho biết thỏa thuận ứng trước cho bác sĩ Ngữ và mấy nhân viên ba vạn đồng (phẩy) ngoài ra UBKCHC Liên khu 4 trợ cấp một vạn rưởi (chấm) Nhưng nếu xét với số tiền này không đủ thì Ban đặc biệt cấp thêm vào khoảng một vạn nữa để cho bác sĩ Ngữ có thể lên đường sớm (phẩy) Bộ sẽ điều chỉnh sau (chấm) Yêu cầu Ban trả lời ngay.”

Một công điện nữa cũng từ Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên gửi UBKCHC Liên khu 4 về trường hợp của bác sĩ Đặng Văn Ngữ thể hiện sự quan tâm hết sức không chỉ đối với bản thân nhà khoa học mà còn đối với cả gia đình của họ. Đó là công điện số 74 CĐ/12/CH ngày 4 tháng 7 năm 1950 “yêu cầu báo cho bà Đặng Văn Ngữ ở trường Chuyên khoa Châu Phong, Đức Thọ, Hà Tĩnh biết bác sĩ Đặng Văn Ngữ bận công việc quan trọng không thể vào đón được. Rồi Chính phủ sẽ tổ chức đưa ra, không cần lo về sinh hoạt và tài chính sẽ có giải pháp. Cứ tin tưởng vào Chính phủ và các bạn ở Liên khu 4”.  Bộ trưởng cũng có công điện riêng đề nghị Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu 4 tạo điều kiện giúp phương tiện để người của Phòng thí nghiệm vận chuyển sách vở và dụng cụ thí nghiệm của ông Đặng Văn Ngữ ra Việt Bắc. Bộ sẽ chịu trách nhiệm thanh toán khoản tiền chi phí cho việc này (công điện số 76CD/BT/CH ngày 16/9/1950)

… Những bằng chứng trên cho thấy một thái độ hết sức trân trọng với người trí thức, một sự quan tâm chu đáo đến cuộc sống, gia đình từng nhà khoa học của người lãnh đạo ngành Giáo dục. Khi khó khăn thì phải đấu tranh và kiên trì phối hợp với các ngành, các cấp để đạt được mục tiêu. Đó chính là phong cách của Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên. Chắc rằng ông đã học được nhiều điều từ tấm gương của Hồ Chủ tịch đối với đội ngũ trí thức và đối với ngay chính bản thân mình.

Ngay khi ông Nguyễn Văn Huyên với tư cách là Giám đốc Đông phương Bác cổ học viện kiêm Tổng Giám đốc đại học vụ được Hồ Chủ tịch chọn là thành viên tham gia hai hội nghị đàm phán quan trọng với Pháp là Hội nghị trù bị ở Đà Lạt và Hội nghị Phông ten nơ blô (Pháp), Bác Hồ luôn động viên ông và quan tâm đến gia đình ông. Ông, vợ ông và các con ông nhớ mãi hình ảnh và tình cảm của Bác khi tiễn ông ở sân bay Gia Lâm lên đường đi dự hội nghị hay khi đoàn trở về Hà Nội. Trong thời gian ông công tác ở Pháp, Bác Hồ trước khi lên đường đi thăm Pháp đã không quên chỉ thị cho ông Hoàng Hữu Nam, thứ trưởng Bộ Nội vụ và ông Ba Ngọ, một nhà cách mạng cao cấp của Đảng, tổ chức lên Lạng Sơn đón cựu Tổng đốc Vi Văn Định (bố vợ ông Nguyễn Văn Huyên) về Hà Nội, để đảm bảo an toàn cho cụ và cũng để ông an tâm khi xa nhà. Những năm đầu kháng chiến khi con gái ông bị lao xương, phải bó bột không đi lại được, Bác Hồ thường xuyên thăm hỏi, gửi quà và thuốc chữa bệnh cho “cháu Hiếu và cho thím Huyên”. Khi mẹ ông qua đời, bác gửi thư chia buồn… Chắc hẳn những tình cảm và sự quan tâm đặc biệt của Bác đối với cá nhân ông đã ảnh hưởng lớn đến những suy nghĩ và ứng xử của ông đối với những người trí thức, những cán bộ trong phạm vi quản lý của mình. Và cũng với cách ứng xử này mà người trí thức mang hết mình cống hiến cho khoa học, cho kháng chiến. Và cũng chính vì thế, trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh, vượt qua bao khó khăn gian khổ, không màng đến lợi ích cá nhân, nhiều nhà khoa học lớn như Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Lê Văn Thiêm, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ, Đặng Thai Mai, Nguyễn Thúc Hào… đã đặt nền móng đầu tiên cho nền đại học Việt Nam, công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu ứng dụng. Chính lớp trí thức này đã đào tạo nên thế hệ cán bộ khoa học đầu tiên của nước Việt Nammới mà sau này đa phần đều trở thành những nhà khoa học đầu ngành ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Người vợ đẹp và tài hoa của Bộ trưởng

Cụ thân sinh bà Kim Ngọc là Tổng đốc Vi Văn Định, tộc Tày, sinh ngày 27-8-1878 tại Bản Chu, làng Khuất Xá, châu Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn (nay là xã Khuất Xá, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn). Nguyên quán xã Vạn Phần, tổng Vạn Phần, huyện Đông Thành (nay là Yên Thành), tỉnh Nghệ An. Cụ  xuất thân trong một gia đình quý tộc gốc Việt-Tày ở Lạng Sơn, là con trai Hiệp tá đại học sĩ Tràng Phái Vi Văn Lý. Cao tổ là cụ Đinh Mật Vi Kim Thắng được triều đình cử  trấn giữ biên giới phía Bắc. Vì định cư lâu đời tại Lạng Sơn nên tổ tiên ông được “Tày hoá”, “tập tước thổ ti” và nhiều người được phong làm Quận công trong nhiều thế hệ từ đời nhà Trần đến triều Nguyễn (1802-1945).

Là một quan lại xuất thân trong một gia đình quý tộc Tày gốc Việt từ lâu đời, gia đình có nhiều người làm quan từ nhiều thế hệ, nhưng cụ Vi Văn Định không làm mất bản sắc văn hoá Việt Nam. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, gia đình cụ tản cư ra Hà Đông, sau đó được chính quyền kháng chiến đưa lên chiến khu Việt Bắc.    Hai “lá ngọc cành vàng” của Vi Văn Định đều đẹp và tài hoa. Một tờ báo xuất bản năm 1936 đăng tin "Cô Kim Ngọc và cô Kim Phú, hai ngôi sao sáng của phiên chợ Thái Bình không dự thi sắc đẹp". Cô giáo Nguyễn Thị Thình nhận xét về Kim Ngọc: “Cái làm tôi thích thú nhất là Ngọc đánh dương cầm hay, lại biết vẽ, tính tình ý nhị, nhẹ nhàng. Theo tôi, thật là một người lý tưởng… Tôi còn nhớ đã đọc được một quyển sách Pháp với một tấn học thức có khi chưa chắc đã mua được một gam thông minh”.

Theo PGS. TS. Nguyễn Văn Huy, con trai cố GS. Nguyễn Văn Huyên, "Mẹ kể rằng ông bà ngoại muốn bà trở thành người con gái toàn bích “cầm kỳ thi họa”, nên khi còn ở Hưng Yên, hàng tuần mẹ được ông cho ô tô đưa về Hà Nội học piano, học vẽ. Sau khi bà ngoại mất, mẹ là người quán xuyến gia đình họ Vi, mặc dù lúc đó mẹ đã đi lấy chồng. Hôn nhân của bố mẹ ghi dấu một sự chuyển đổi quan trọng của xã hội, từ quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” sang “tự do yêu đương”.  Câu chuyện từ chối hôn nhân do gia đình sắp đặt của bà minh chứng cho một xã hội đang vận động mạnh vào những năm 1930, khi "làn gió mới" phương Tây đã thấm vào Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực hôn nhân. Ngay cả Tổng đốc Vi Văn Định khi đó cũng  đồng ý trả lễ hứa hôn trong 3 năm theo truyền thống, để con gái được tự chọn người yêu. Hồi ký của bà Vi Kim Ngọc, năm 1975 ghi: "Ước mơ của em khi đôi tám xuân xanh quyết chọn được người tài đức mới dám trao gửi thân… Thế là em đã được toại nguyện". Người tài đức mà bà Kim Ngọc “dám trao gửi thân” đó là GS.TS. Nguyễn Văn Huyên. Họ cưới nhau năm năm 1936.

Bà Vi Kim Ngọc đã viết những dòng này trong nhật ký: “Khi mẹ có thai lần đầu, cha mẹ vừa mừng vừa lo. Cha chăm sóc mẹ từng ly từng tý. Mẹ ốm nghén liền 4 tháng, gầy sút từ 48kg - 49kg xuống còn 41kg. Bà ngoại của các con thương xót mẹ quá".

“Mẹ nhắc tôi nhớ đến tên mình có chữ đầu của tên cha và mẹ: N-H (Nữ Hạnh). Sau này tôi nhìn thấy cha mẹ có bộ cốc bằng bạc có khắc chữ N-H rất đẹp. Tôi cảm nhận được mối tình đằm thắm của cha mẹ nên càng cố gắng góp phần giữ gìn hạnh phúc” (Nguyễn Kim Nữ Hạnh)

“Bích Hà sinh ra lúc đó đang Chiến tranh thế giới thứ hai. Mọi việc có nhiều thay đổi. Con đã biết thiếu thốn rồi, chị Hạnh và cha con lại bị thương hàn. Ôi, ba tháng trời lo âu, vất vả của mẹ, con lại đau bụng, ho gà, người chỉ còn da bọc xương. Bao bác sĩ Tây, Ta giỏi đều chữa mà vô hiệu. Sau đành mời ông lang chữa cho một tháng thì bệnh lui. Mẹ cha mới đỡ lo” (Trích Nhật ký của bà Vi Kim Ngọc).

Trong thư của bà Kim Ngọc gửi cháu ngoại Kim Hiền, bà đã truyền cho cháu kinh nghiệm để gây dựng nên một gia đình, như bà đã có: “Với gia đình ta, bà đã xây đắp những viên gạch nhỏ đầu tiên. Cứ thế cần cù, kiên trì, tin tưởng, phấn khởi, bằng mọi khả năng của mình xây đắp tổ ấm hạnh phúc…”.

Là lớp Kỹ thuật viên đầu tiên công tác tại Bộ môn Ký sinh trùng, trường Đại học Y Hà Nội, bà Vi Kim Ngọc được các thế hệ học trò, đồng nghiệp biết đến như một hình ảnh mẫu mực cho thế hệ phụ nữ lúc bấy giờ. Bà Kim Ngọc từng được GS. Đặng Văn Ngữ trực tiếp đào tạo, hướng dẫn các kỹ thuật thực hành về Ký sinh trùng, đặc biệt là thực hành về muỗi. Bà cũng là cán bộ được GS. Đỗ Dương Thái đặc biệt quan tâm, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ. Trong hoạt động chuyên môn cũng như cuộc sống đời thường, bà Kim Ngọc luôn để lại ấn tượng đẹp cho bất kỳ ai đã tiếp xúc với bà. Bà có công đào tạo các thế hệ học trò từng học tập tại Bộ môn Ký sinh trùng, trường Đại học Y Hà Nội. GS.TS Phạm Huy Dũng, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế và PGS.TS Hoàng Tân Dân, nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Ký sinh trùng, trường Đại học Y Hà Nội là hai trong số những học trò xuất sắc của bà.

Có thể xem bà Vi Kim Ngọc là một kỹ thuật viên đặc biệt của Bộ môn. Bởi qua sự lựa chọn, đào tạo đặc biệt của GS Đặng Văn Ngữ cùng với sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, bà được Bộ môn tin tưởng giao nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy cho các sinh viên chuyên khoa đến Bộ môn thực tập, thậm chí hướng dẫn cho các giảng viên mới nhận công tác.

GS Phạm Huy Dũng nhớ lại: “Bà Ngọc dạy làm công việc bình thường nhất, nhưng nghiêm túc nhất và trí tuệ nhất”. Ông vẫn nhớ cách bà Ngọc giảng cho các sinh viên thực tập về muỗi. Mới đầu phải đưa sinh viên đi bắt muỗi, mang về cắm vào kim thủy tinh, sau đó quan sát và tiến hành định loại và làm các tiêu bản; Một số muỗi được mổ để nghiên cứu tuổi sinh lý, tuổi thật của muỗi... Hay những lần đi lấy mẫu phân trẻ em, phải đãi phân để tìm trứng giun làm tiêu bản… bà vẫn không nề hà gì. Bà hướng dẫn sinh viên rất cẩn thận, tỉ mỉ từ cách chuẩn bị lam kính, cách cầm lam kính để kéo máu, đến cách kéo kim thủy tinh sao cho khéo léo, chính xác.

PGS.TS Hoàng Tân Dân, một học trò cũng là người đồng nghiệp gắn bó nhiều năm với bà cũng có cảm nhận: Trong công việc, bác Ngọc là người rất khoa học. Khoa học từ tác phong làm việc, cách hướng dẫn sinh viên đến việc đưa ra các con số chính xác trong các nghiên cứu. Khi giảng bài cho học trò, bà Kim Ngọc luôn liên hệ nội dung bài với các vấn đề thực tế để bài học thêm sinh động. Đó cũng là những bài học quý mà Hoàng Tân Dân học được ở bà. Sau này, ông vận dụng nó trong quá trình công tác, nghiên cứu. Đặc biệt là trong giảng dạy, ông luôn truyền lại tâm huyết này cho các thế hệ học trò.

Nhắc đến bà Vi Kim Ngọc, không thể không nói đến những bức vẽ của bà. Bà Ngọc vẽ rất đẹp. Bà thường vẽ tĩnh vật như cây cỏ, hoa lá, chân dung. Đặc biệt là các bức vẽ về muỗi, rất chi tiết và sinh động phục vụ chủ yếu cho công tác giảng dạy của Bộ môn, một số khác được đưa vào xuất bản trong sách giáo khoa.

Không chỉ những người trực tiếp được bà hướng dẫn, giảng dạy, ngay cả thế hệ sau, những người chỉ được nghe về bà cũng có ấn tượng tốt đẹp về người phụ nữ tài hoa, đức độ. Th.S Trương Thị Kim Phượng, nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Ký sinh trùng chia sẻ: Tôi không may mắn được gặp và làm việc với cụ Ngọc, nhưng tôi được nghe các đồng nghiệp kể lại rằng, cụ Ngọc thường ngồi nhìn mẫu muỗi trong kính hiển vi để vẽ lại, do vậy độ chính xác cao từ màu sắc đến các điểm chấm trong chân con muỗi được cụ vẽ rất chính xác và hài hòa. Hơn nữa, tôi nhận thấy các bức tranh về muỗi của cụ vẽ rất có hồn bởi cụ là người có chuyên môn, am hiểu về muỗi. Sau này, đến thời chúng tôi, Bộ môn phải thuê họa sĩ đến vẽ thêm tranh để phục vụ giảng dạy, họ thường nhìn tranh của cụ để phóng tác lại”.

Hiện còn rất nhiều bức vẽ, hình vẽ của bà Vi Kim Ngọc được gia đình và Bộ môn Ký sinh trùng lưu giữ. Đặc biệt, các bản vẽ về muỗi vẫn được các cán bộ trong Bộ môn sử dụng trong các buổi lý thuyết thực hành. Tại Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên còn lưu giữ  được nhiều tranh do bà vẽ qua các thời kỳ. Trong đó nhiều bức vẽ về chuyên môn và các bức tranh sơn dầu.

(Theo tài liệu của PGS.TS. Nguyễn Văn Huy và ThS. Phạm Kim Ngân và tài liệu tại Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên)