Nổi tiếng cả nước từ khi mới 7-8 tuổi, được người đời mệnh danh là “thần đồng thơ Việt Nam”, “ngàn năm trước chưa hề có, ngàn năm sau chưa chắc đã gặp” và cho đến tận bây giờ, tên tuổi của anh vẫn rất nóng. Hàng vạn bài báo đã viết, hàng trăm thước phim truyền hình trong và ngoài nước đã làm về anh. Những tưởng cuộc đời nhà thơ Trần Đăng Khoa chẳng còn gì là bí mật. Vậy mà, khi được nghe những câu chuyện lạ lùng, kỳ bí mà tôi sắp kể ra đây, tôi mới giật mình vỡ lẽ: Hóa ra, những điều trước đây người ta viết về anh, chỉ là phần nổi của hòn “đảo chìm” Trần Đăng Khoa, cái phần chìm sâu dưới đáy đại dương kia mới là cái nền tạo nên cốt cách, tài năng của một thiên tài. Kể lại những câu chuyện kỳ bí, đôi khi mang màu sắc liêu trai này cũng là để gợi mở cho các nhà nghiên cứu một hướng tiếp cận, lý giải về những cơ duyên đặc biệt tạo nên khả năng đặc biệt của thần đồng thơ Trần Đăng Khoa.
NHỮNG “THÂM CUNG BÍ SỬ” KỲ BÍ CỦA THẦN ĐỒNG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA: CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ
Từ tiền kiếp, chúng tôi là một cặp song sinh?
Tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa quen biết nhau dễ đã ngót 20 năm, từ hồi, tôi còn là Trưởng đại diện của Tạp chí Thế giới mới tại Hà Nội và anh là cộng tác viên đặc biệt của báo. Cùng với thời gian, càng chơi, chúng tôi càng hiểu nhau, đến độ nhiều lúc ngồi thưởng trà, không ai nói với ai một lời mà chúng tôi vẫn đọc được, vẫn hiểu được những suy nghĩ của nhau. Cũng bởi càng hiểu nhau nên tình thân càng thêm gắn bó. Tuy sinh ra không cùng dòng máu nhưng tình yêu thương chúng tôi dành cho nhau chẳng khác chi ruột thịt. Mọi buồn vui trong đời, tôi và anh luôn đồng hành, chia sẻ. Hai anh em, hai tính cách, hai số phận nhưng đều có chung một điểm, đó là lòng tốt, là sự tử tế. Cả đời, nhà thơ Trần Đăng Khoa chưa một lần cố ý làm hại ai. Tôi cả đời cũng chưa một lần hữu ý hãm hại ai bao giờ. Mặc cho dòng đời trong đục, hai anh em nương vào nhau, giữ gìn, tưới tẩm tâm tốt cho nhau, những mong mang những điều tốt lành, đẹp đẽ cho người, cho đời. Hai anh em tuy cách nhau nhiều tuổi nhưng khi đã là tri kỷ thì chẳng có khoảng cách nào. Tôi và anh tuy hai mà một. Sự thành công, niềm hạnh phúc của người này cũng chính là niềm hạnh phúc, sự thành công của người kia. Có những người, cả đời khát khao đi tìm tri kỷ mà cuối đời, tri kỷ vẫn vời vợi nơi nao. Tôi và anh, nhờ duyên lành, không hẹn mà gặp, không tìm mà đến. Ngẫm thế, mới thấy hai anh em chúng tôi thật may mắn và hạnh phúc biết bao.
Có một điều vô cùng đặc biệt là tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng (5h chiều ngày 26 tháng 4). Không biết có phải vì thế mà số phận của hai anh em có những điều trùng hợp đến kinh ngạc. Nhiều chuyện xảy ra với chúng tôi chỉ cách nhau vài hôm, thậm chí vài giờ. Ví như anh Khoa ốm, tôi cũng ốm. Mẹ tôi cấp cứu vì bệnh tim hôm trước, hôm sau mẹ anh cũng cấp cứu vì bệnh tim. Bố anh mất, bố tôi cũng mất. Ở một mình, có lần tôi để bọc tiền vào túi đựng rác, rồi nhãng ý đổ đi. Một tuần sau, anh cũng lẳng cái túi giấy bóng đựng giấy lộn vào xe chở rác, về nhà mới chợt nhớ trong đó có bọc tiền vừa rút ở ngân hàng. Buổi sáng, phòng anh sặc sụa mùi chuột chết. Buổi tối, phòng tôi cũng nồng nặc mùi chuột chết. Sáng sớm, rắn trắng bò vào nhà anh. Buổi trưa, rắn đỏ chui vào gầm xe ô tô của tôi. Cách đây ít tuần, tôi bị chấn thương cổ tay rồi chuyển sang viêm khớp. Ít hôm sau, anh cũng bị viêm khớp gối và cả hai anh em đều phải tiêm thuốc Voltarel... Nhiều người chứng kiến những sự trùng hợp đến kỳ lạ này giữa tôi và anh, đã lý giải bằng tâm linh: “Có lẽ kiếp trước, chúng tôi là một cặp song sinh. Kiếp này, đủ duyên hội ngộ nên số phận hai anh em mới trùng lặp nhau đến vậy”.
Vì thân nhau như ruột thịt nên những chuyện “thâm cung bí sử” của cuộc đời mỗi người, tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa đều biết. Và thú thực, rất nhiều lần, tôi đã sởn da gà, lạnh sống lưng, há hốc mồm vì kinh hãi khi được nghe những câu chuyện kỳ bí, nhiều khi kinh hoàng, đầy màu sắc liêu trai, không thể lý giải nổi của cuộc đời anh, cuộc đời của một thần đồng thơ nổi danh từ khi lên 8 tuổi.
Từng… chết khi vừa lên 1
Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh ra tại làng Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương trong một gia đình thuần nông. Ngay từ đầu năm 1958, bố mẹ anh là một trong những nông dân đầu tiên của làng tham gia Hợp tác xã nông nghiệp. Thời điểm đó, quê anh bắt đầu thực hiện cải tiến kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi bằng cách áp dụng phương pháp cấy dày như gieo mạ của Trung Quốc và nuôi lợn bằng… phân trâu. Kết quả của cuộc cải tiến kỹ thuật chết người đó là ruộng lúa biến thành bãi cỏ còn lợn thì gầy giơ xương như chó bị đi kiết. Thậm chí phân của đàn lợn bụng ỏng đít beo ấy dùng để bón cho lúa cũng chẳng có tác dụng gì. Thế mà người nông dân làng Điền Trì vẫn đua nhau cải tiến. Trồng khoai, thay bằng trồng từng luống theo lối truyền thống, người ta chẻ tre đan những cái sọt to như cái bồ. Bao nhiêu phân và đất màu mỡ, họ hót lên, đổ vào trong sọt, làm thành cái ụ cao ngang đầu người rồi cấy dây khoai lang vào. Cuối cùng, khoai chết, ụ đất thành một cái lô cốt rắn đanh như đá, ruộng thì bạc hết màu. Cả làng đói vàng mắt. Đói quá, đói đến run người, không chịu nổi nên vớ cái gì cũng ăn. Lá sắn, lá sung, rau ngổ, rau cúc tần, họ hái cả rổ, cho vào nồi luộc, ăn ngấu ăn nghiến như lợn. Một thời gian sau, những thứ rau vốn dĩ dành cho trâu, bò, gà, lợn ấy cũng cạn kiệt, người ta phải ăn đu đủ. Ăn hết quả rồi thì ăn lá. Lá hết thì ăn thân. Bỏ cái vỏ ngoài, cạo sạch cái lòng trắng bên trong, luộc đổ nước đầu đi, rồi nấu lên ăn. Cuối cùng thân cũng hết, phải đào ăn cả rễ. Nhiều người ăn xong nôn thốc nôn tháo vì say. Nhà cậu bé Khoa có cái ao thả bè muống nên khá hơn. Có điều, rau non hết, phải ăn cả rau già, rồi ăn cả gốc. Gốc muống rửa sạch, thái nhỏ phơi khô, thổi lên như thổi xôi, đổ ra rá, trông đen như phân trâu thế mà mỗi bữa, ăn vã cũng được 4-5 bát. Vì gặp cái gì cũng ăn, rồi nốc nước lã nên cả làng đi tả. Người chết như ngả rạ. Có người chết rồi mà mồm vẫn há ngoác như miệng cá ngão, gia đình vã rượu, bóp thế nào mồm vẫn không khép lại được. Khổ! Họ đói quá mà nên đến khi chết, cái miệng vẫn há ra như đòi ăn. Nhìn cảnh tượng ấy, người ta cứ liên tưởng đến cảnh chết đói năm 1945.
Vì chết do tả nên người ta phải chôn vội chôn vàng, sợ bị lây nhiễm. Nhiều khi, người chết vừa trút hơi thở, gia đình đã vội bó chiếu, rắc vôi bột, vừa khiêng vừa chạy huỳnh huỵch ra cánh đồng làng chôn, chẳng còn hơi sức, tâm trí đâu mà kêu khóc. Dường như ngày nào làng cũng có người chết. Cả làng nháo nhác cả lên. Sau này, khi bốc mộ sang cát, có trường hợp vô cùng đặc biệt khiến mọi người giật mình kinh hãi. Đó là bà Nguyễn Thị C., dì họ của cậu bé Khoa. Bà cũng chết vì bệnh tả nhưng may mắn hơn người khác là được chôn bằng quan tài, dẫu là đóng vội bằng gỗ tạp. Hôm bốc mộ, khi bật nắp quan tài, đập vào mắt mọi người là con dao nhỏ, sắc có chuôi nhọn mà khi còn sống, bà C. thường dùng để têm trầu, lúc khâm liệm, gia đình đã để trong quan tài, gần tay trái bà, giờ đây, con dao ấy cắm chặt vào mép tấm ván thiên. Mọi người òa khóc vì nghĩ rằng, sau khi chôn lấp, bà đã sống lại. Và chính tay bà đã đâm phập con dao sắc nhọn ấy vào nắp ván thiên để báo cho con cháu biết sau này. Xót xa vô cùng. Nhiều người thảng thốt tự hỏi: không biết trong số hàng chục người chết bó chiếu chôn vội chôn vàng ấy, có ai sống lại như bà C. không? Nghĩ thế mà thấy rùng mình. Sợ quá, chua xót quá.
Cũng năm ấy, cậu bé Khoa tròn 1 tuổi, cũng bị đi tả. Miệng nôn chôn tháo suốt buổi sáng. Đến trưa cậu lả đi. Anh trai cậu, nhà thơ Trần Nhuận Minh, khi đó 15 tuổi, ở nhà trông em, lay gọi mãi mà cậu vẫn nằm bất động. Anh kêu toáng lên, đúng lúc mẹ anh đi làm đồng về. Bà vứt vội đôi quang gánh ngoài sân, lao vào nhà, bế xốc cậu lên, vỗ lưng, vỗ mông đen đét, gào gọi nhưng Khoa vẫn nằm èo uột như một dải khoai, người lạnh ngắt. Mẹ cậu khóc ầm lên. Anh Luận, nhà kề bên, nghe tiếng gào khóc, vội chạy sang. Anh dứt một sợi tóc, đặt ngang lỗ mũi cậu bé Khoa rồi căng mắt nhìn, nín thở. Một phút. Hai phút. Ba phút. Không thấy sợi tóc lay động. Anh thở dài bảo: “Thằng bé chết rồi”. Anh lấy manh chiếu rách, bó Khoa tròn lại rồi chặt cây tre non, pha ra làm lạt, buộc chặt ba nút. Anh bảo: “Phải đem chôn gấp chị ạ kẻo lây ra cả nhà”. Mẹ Khoa níu tay anh Luận, vừa khóc, vừa nói, giọng như van nài: “Chú để cho cháu nằm thêm ở nhà một lúc. Tội nghiệp nó”.
Anh Trần Nhuận Minh chợt nhớ đến người cậu ruột là ông Trần Quang Tính, một thầy lang nức tiếng. Anh vội hớt hải chạy sang gọi. May sao, ông Tính lại có nhà. Ông nhẹ nhàng cởi nút lạt, mở manh chiếu, phanh hết quần áo của Khoa ra. Người Khoa tái nhợt, da nhăn nhúm. Ông nắm cổ tay Khoa bắt mạch rồi khẽ thở dài. Ông bốc một nắm đất vách, rắc lên bụng Khoa rồi cầm con dao nhỏ, mũi nhọn, sắc mà mẹ Khoa hay bổ cau, khứa nhẹ lên đuôi mày bên mắt phải cậu. Không thấy máu chảy. Theo phong tục địa phương, đó là cách đánh dấu những đứa trẻ bị chết non, chết yểu để sau này dễ nhận biết nếu đứa trẻ lộn lại đầu thai lần nữa trong nhà. Ông Tính vừa khứa vừa nói: “Mong cháu kiếp sau đầu thai vào gia đình khác cho đỡ khổ”. Nói đoạn, ông giơ bàn tay với những ngón thon dài, thanh mảnh lên nhẩm tính rồi bảo: “Chị cứ chờ đến giờ Dậu rồi hãy mang cháu ra đồng”. Nghe vậy, anh Minh òa khóc nức nở. Anh sực nhớ đến ông Nguyễn Văn Thảo, người làng bên, vốn là y tá quân đội vừa về phục viên. Anh ù té chạy đến nhà ông cầu cứu. Ông Thảo bảo: “Thôi thì còn nước còn tát”. Ông tiêm cho Khoa một mũi thuốc cấp cứu rồi rút 5 đồng tiền trong túi, dúi vào tay anh Minh, bảo anh chạy nhanh đi mua thuốc. Ông ghi tên một cửa hàng thuốc ở mãi thị xã Hải Dương, cách làng chừng 10 km. Đường đến thị xã phải qua bến sông Hàn. Đó là một con sông rộng, nước mênh mông. Thuyền qua lại thưa thớt. Anh Minh đội nón, khoác áo tơi, vừa chạy vừa thở dốc. Mệt muốn đứt hơi nhưng vẫn cố chạy sao cho thật nhanh. May sao, cả lúc đi và về, đều có đò đợi sẵn, không phải chờ. Sau này, anh mới biết, thứ thuốc ông Thảo sai mua là sâm. Năm đồng được một mẩu bằng hai đốt ngón tay út. Ông Thảo cắt nhỏ, sắc với nước rồi đổ vào miệng Khoa.
Cả nhà ngồi chờ. Không khí nặng nề, ảm đạm bao trùm lên căn nhà gianh rách nát. Thỉnh thoảng, mẹ Khoa lại gục mặt vào người cậu, khóc nấc lên, tiếng khóc ai oán, nỉ non. Thế rồi đến đúng cái giờ đem cậu đi chôn thì chợt có tiếng ọ ẹ. Bà mẹ giật mình. Nền đất thằng bé nằm in vệt thâm xỉn. Bà kêu lên: “Cậu Tính ơi! Cậu xem này”. Ông Tính lật đật chạy lại rồi reo lên: “Hình như thằng cu đái này”. Vừa lúc ấy cậu bé khẽ cựa quậy rồi cất tiếng khóc ọ ẹ. Tiếng khóc yếu ớt như tiếng mèo hen. Ông Tính vội vàng chạy ra trước bàn thờ gia tiên, thắp hương, chắp tay lạy như tế sao. Ông cười bảo: “Thằng cu này chết đi sống lại thế này là người nhà giời đấy. Sau này nó ắt hơn người”. Từ bấy, gia đình Khoa coi ông Thảo là vị ân nhân, là người cha thứ hai của Khoa. Tết năm nào, bố mẹ cậu cũng sắm một túi quà nhỏ biếu ông để tạ ơn cho đến tận khi ông qua đời.
Có một vị cao tăng, sau khi nghe vụ chết đi sống lại đầy ly kỳ trên của cậu bé Khoa, đã lý giải: “Cũng giống như các nhà ngoại cảm Việt Nam, có khả năng đặc biệt sau một cơn đột biến, vụ sống lại bất ngờ của Khoa sau khi chết đã kích hoạt những nơ-ron thần kinh đặc biệt nào đó trong não bộ, vì thế, mới 7, 8 tuổi đầu, anh đã viết những bài thơ trác tuyệt. Việc chết đi sống lại cũng có thể là một cơ duyên để anh tiếp nhận những năng lượng đặc biệt từ vũ trụ để tạo nên một thần đồng thơ lừng lẫy sau này”.
Vụ tai nạn lạ lùng đầy liêu trai
Mấy chục năm sau vụ chết đi sống lại kỳ lạ ấy, thần chết lại một lần nữa suýt cướp đoạt tính mạng nhà thơ Trần Đăng Khoa. Một vụ tai nạn lạ lùng đã xảy ra với anh mà cho đến tận bây giờ, chính anh vẫn ngơ ngác không hiểu tại sao mình vẫn còn sống? Tại sao nó lại xảy ra một cách kỳ lạ như trong chuyện “Liêu trai chí dị” vậy?
Chuyện là, năm 1996, sau khi đi du học ở Nga về, nhà thơ Trần Đăng Khoa dành dụm được một khoản tiền, mua chiếc xe cup 82 đời 96. Chiếc xe mới coóng, giá 1.600 USD. Thời điểm đó, chiếc xe là cả một tài sản lớn. Mua xe hôm trước, hôm sau, anh phóng về quê thăm gia đình. Buổi chiều, quay trở lại Hà Nội, đến gần cầu Ghẽ, xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, anh dừng lại đi tiểu ở bụi cỏ bên lề đường. Chiều xế, đường vắng. Cánh đồng bên đường vừa gặt còn thơm mùi rạ. Anh chợt rùng mình. Như có một luồng gió lạnh chạy dọc sống lưng. Anh nhìn xuống dưới chân mình. Quái, sao vạt cỏ hoang mình đi tiểu, đứa trẻ nào lại nghịch bậy cắm hương vào thế này? Hương có phải chỗ nào cũng cắm được đâu? Hay là có mộ? Không! Không phải mộ. Chẳng có ai lại chôn người nhà ở lề đường. Vẫn là vạt cỏ úa, chỉ có mấy hòn gạch vỡ xếp lên. Thì cũng như bạt ngàn những vạt đất lề đường. Chỉ khác là có vài chân hương tắt đã lâu. Cái xiêu, cái vẹo. Rồi anh lại nghĩ, chắc có cỗ xe tang nào đó đi qua, người ta vứt những chân hương tắt ra. Rồi gió do các luồng xe chạy cuốn vào lề đường. Anh không biết đấy là ngôi mộ gió. Có thể ai đó bị tai nạn giao thông ở đây, rồi người dân xếp mấy hòn gạch và đất đá, cắm mấy nén hương. Mộ gió đâu có xương cốt, và như thế, đâu phải là mộ. Ấy là sau này anh biện bạch thế, chứ lúc ấy, anh chẳng để ý làm gì. Anh lên xe, tiếp tục phóng đi. Nhưng rồi đi một quãng, anh có cảm giác là lạ. Đầu óc bồng bềnh, váng vất, mơ mơ màng màng, giống như người buồn ngủ. Nhưng không thấy buồn ngủ. Anh vội kéo hất tấm kính che mặt trên mũ bảo hiểm lên, để gió cuối thu se lạnh táp vào mặt lành lạnh nhưng vẫn không xua được cái cảm giác lơ mơ. Đưa mắt nhìn về phía cánh đồng. Sương mù giăng giăng. Những làng xóm quen thuộc xa xa. Anh huýt sáo. Rồi hát. Hát rất to. Đấy là điều chưa bao giờ anh làm ở đời. Rồi anh không biết gì nữa. Người lịm đi. “Ô cái ông này say rượu!”. Có tiếng ai nói. Anh bừng tỉnh. Rồi thấy kinh ngạc khi nhận ra mình nằm sóng soài giữa đường. Chiếc xe đổ đè lên chân anh, máy vẫn đang nổ, tiếng đèn xi nhan kêu “Bíp… Bíp”. Đầu xe lại quay về Hải Dương. “Chú vào đây cháu sửa cho. Xe đổ kinh quá. Tưởng chú chết tươi luôn. Thế mà chú lại không làm sao nhỉ.”. Anh bạn đầu húi cua nâng xe lên, dắt vào vệ đường. Ở đó là cửa hàng chữa xe máy của anh. Anh bạn cũng kinh ngạc khi thấy chiếc xe cũng không làm sao cả, thậm chí không có một vết xước. Duy chỗ để chân bên phải xe bị còng gập. Anh chàng sửa xe phải dùng cả sức mạnh toàn thân, nhảy lên dậm dậm đến cả nửa tiếng mới uốn được cái đặt chân đỡ bị vênh váo. “Phúc nhà chú to như cái đình. Nếu không, hôm nay chú đã bẹp dí như con gián dưới bánh xe ô tô tải rồi. Mà không hiểu sao lúc chú ngã, đường lại vắng quạnh, không có một bóng xe nào. Nhưng cháu phải công nhận là chú lái xe máu thật. Trong môn phái võ Thiếu lâm nổi danh có võ say, còn chú thì gây sốc bằng kiểu lái say. Vừa rồi, cánh đua xe mà nhìn thấy chú thì chúng phải quỳ xuống mà lạy rồi suy tôn chú làm đại sư phụ”. Nhìn bản mặt ngơ ngơ ngác ngác của nhà thơ, nó mỉm cười, nắm tay anh, lôi sang bên kia đường, chỉ tay xuống rồi, bảo: “Sư phụ nhìn thấy những vết bánh xe hằn in trên ruộng kia không? Vết xe của sư phụ đấy. Lúc cháu đang ngồi uống nước trước cửa hàng thì nhìn thấy sư phụ bay vèo xuống ruộng. Tưởng chú bị tai nạn, cháu vội chạy ra. Ai dè, sư phụ lượn ba vòng dưới ruộng rồi thoắt một cái, chú bay thốc từ ruộng lên trên đường. Xe máy đổ đánh rầm. Xe đổ rồi mà vẫn gầm như sư tử. Cháu hét lên chú không nghe thấy à? Mọi người bên đường nháo nhào chạy ra. Chú đúng là thoát chết trong gang tấc. Ông giời hay vị thần linh nào đó cứu chú đấy. Thôi! Chú về mổ lợn ăn mừng đi”.
Tai nghe cậu sửa xe trợn trạo nói, mắt nhìn chằm chằm xuống thửa ruộng ven đường, nhà thơ há hốc mồm kinh ngạc. Thửa ruộng nhỏ chừng 5 miếng vừa gặt, gốc rạ còn lổng chổng, rành rành vết bánh xe máy loằng ngoằng trông như những vệt trườn của con chăn. Đếm kỹ vệt bánh xe, lượn vừa đúng 3 vòng ruộng. Càng kinh ngạc hơn khi bờ ruộng gắn với đường quốc lộ 5 cao hơn cả bánh xe. Bờ lại dựng đứng. Vậy làm thế nào mà anh có thể phóng vọt từ dưới ruộng lên trên đường quốc lộ 5 trong tình trạng hoàn toàn mất hết mọi tri giác. Kỳ lạ thật.
Lúc ngồi uống nước trong cửa hàng sửa chữa xe máy, kể lại với mọi người về cái cảm giác ớn lạnh khi phát hiện ra mình đi tiểu đúng đống đá có ai cắm hương nằm bên đường, sau đó là cảm giác váng vất, bồng bềnh, mê mị, mấy người mắt tròn mắt dẹt: “Mộ gió! Mộ gió. Kinh nhỉ. Tưởng là không có xương cốt thì không có gì”. “Chú ạ, cái nấm đất ấy chẳng biết ai đắp từ bao giờ? Thỉnh thoảng vẫn thấy có người hương khói. Có điều, chẳng hiểu sao, nhiều người qua đây cũng gặp họa như chú, nhưng họ cứ lao thẳng vào đầu ô tô, hoặc lao thẳng xuống ruộng. Lôi được lên thì đã chết rồi. Chú thoát chết là nhờ có võ đấy”. “Chú có biết gì đâu mà võ với vẽ”. “Chú lại giấu cháu. Không có võ thì làm sao chú phóng được xe lên đường. Mà ngã như trời giáng lại không làm sao cả. Không có cả một vết xây sát!”.
Ông Thần đồng rùng mình. Bây giờ thì đến lượt anh tự ngạc nhiên và kinh sợ. Anh sợ gì? Sợ cái xe ma. Anh bán gấp cái xe. Bán rất rẻ. Người mua xe bất ngờ vì cái xe quá rẻ mà cực tốt. Gần ba chục năm rồi, ông chủ mới chỉ thay dầu và thay lốp xe mà vẫn chưa phải sửa chữa gì. 5 năm sau, cũng tại chính đoạn đường này, một vụ tai nạn kinh hoàng lại xảy ra với nhà thơ Trần Nhuận Minh, anh trai nhà thơ Trần Đăng Khoa. Ông chết lâm sàng suốt 4 tiếng đồng hồ, không hay biết gì. Đấy cũng là một chuyện kỳ dị nữa.
ÂM MƯU ĐÀO PHÁ MỘ TỔ CỦA THẦN ĐỒNG THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA VÀ CÁI CHẾT RÙNG RỢN CỦA NHỮNG KẺ PHÁ MỘ
Vụ tai nạn tàn khốc, rùng rợn
5 năm sau vụ tai nạn lạ lùng, đầy bí hiểm và liêu trai của nhà thơ Trần Đăng Khoa trên đường quốc lộ 5 thuộc địa phận cầu Ghẽ, xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, đêm ngày 5 tháng 8 năm 2001, cũng tại chính đoạn đường này, một vụ tai nạn kinh hoàng đã xảy ra với nhà thơ Trần Nhuận Minh, anh trai nhà thơ Trần Đăng Khoa. Vụ tai nạn đã gây chấn động huyện Cẩm Giàng không chỉ bởi độ tàn khốc của nó mà còn bởi sự thoát chết kỳ lạ của nhà thơ Trần Nhuận Minh. Cách đây ít hôm, ngồi kể lại cho tôi nghe toàn bộ vụ việc, chìa cánh tay săn chắc ra trước mặt tôi, ông bảo: “Đến tận bây giờ, nhắc lại vụ tai nạn rùng rợn ấy, anh vẫn còn sởn hết da gà lên đây này. Quả thực, anh không thể hiểu nổi, tại sao mình vẫn còn sống sót sau cú đâm xe tàn khốc ấy. Tất cả những người chứng kiến vụ đâm xe hôm đó, không ai tin là anh có thể sống lại. Phúc nhà anh quá lớn chăng hay các cụ linh thiêng đã che chở cho anh?”. Rồi ông chậm rãi kể.
Chiều muộn ngày 5 tháng 8 năm 2001, kết thúc hội nghị thường kỳ của Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tại thành phố Đà Lạt, nhà thơ Trần Nhuận Minh bay luôn ra Hà Nội. Thời gian đó, ông là Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Vì có cuộc họp quan trọng với chủ tịch tỉnh vào sáng hôm sau nên lái xe của Hội đã ra tận sân bay Nội Bài đón ông rồi chở thẳng về Quảng Ninh. Đêm khuya. Đường vắng. Trăng sáng vằng vặc. Thỉnh thoảng mới gặp một vài chiếc xe ô tô ngược chiều phóng như tên bắn. Đến gần địa phận cầu Ghẽ, cậu lái xe buồn đi tiểu nên dừng xe bên vệ đường. Ô tô vẫn nổ máy, đèn xi nhan vẫn bật. Không biết run rủi thế nào, cậu lái xe lại đi tiểu vào đúng chỗ mộ gió, nơi mà nhà thơ Trần Đăng Khoa đã từng đi và rùng mình ớn lạnh khi nhìn thấy vài chân hương xiêu vẹo. Nhà thơ Trần Nhuận Minh do mệt nên vẫn ngồi trên xe. Ông ngả đầu vào thành ghế, thiu thiu ngủ. “Rầm”. Một chiếc xe bò ma 5 tấn chở hàng từ Sài Gòn chạy cùng chiều với tốc độ 60km/h tông thẳng rồi chồm lên 2/3 chiếc xe Mazda 4 chỗ. Ông Minh hoảng loạn hét ầm lên. Con Mazda bị chiếc xe tải to vật ngoạm chặt vào gầm, kéo rê trên mặt đường dài 55m rồi lao thẳng vào dải phân cách. “Rầm”. Dải phân cách bằng thép đổ kềnh, gẫy gập, bẹp dúm. Xe ông Minh văng lên không trung như một con khăng, bay qua dải phân cách, bay vèo qua đường quốc lộ, bay qua cả hai thửa ruộng rồi cắm thẳng đầu xuống cái ao thả rau muống. Vỏ chiếc xe con bị vò nát như cái vỏ trứng bị bóp dập. Toàn bộ 2/3 thân xe phía sau bị cái ba-đờ-sốc của xe tải kéo giật ra, trống hoác. Cái cặp số của nhà thơ để ở cốp xe bẹp rúm. Đầu ông đập mạnh vào chiếc ghế bọc da phía trước và kẹt chặt vào đó. Thật may. Nếu không đầu ông đã bị cái ba-đờ-sốc như cái máy chém khổng lồ kia kéo ngang cổ mà lôi ra, đứt lìa.
Theo biên bản do phòng cảnh sát giao thông huyện Cẩm Giàng lập lúc 22 giờ 15 phút ngày 05/8/2001 thì chiếc xe của ông Minh đã bay chéo trên không trung 57 mét trước khi cắm đầu xuống ao rau muống bên kia đường, cách mép cuối cùng của vệ đường 2,3 mét. Lúc mọi người lao xuống ao vớt ông lên, máu từ miệng, từ mũi ông chảy ra tuôn xối xả, ướt sũng cả chiếc ghế da. Ông ngưng thở, đầu nghoẹo sang một bên, người mềm oặt như con gà bị cắt tiết. Hai thanh niên người địa phương tốt bụng, một người lái xe máy, một người ngồi sau ôm “xác” ông đưa vào bệnh viện đa khoa Hài Dương. Ông chết lâm sàng bốn tiếng đồng hồ liền, hoàn toàn không biết gì. Cảnh sát giao thông điện thoại báo tin cho gia đình, cả nhà náo loạn. Bà Diễn, vợ ông ngất xỉu. Nhà thơ Trần Đăng Khoa, nửa đêm bắt taxi về Hải Dương, ôm theo bọc tiền, chuẩn bị lo hậu sự cho anh trai. Nhưng kỳ lạ thay, đến 2h sáng ngày 6 tháng 8, ông Minh bỗng tỉnh lại. Bệnh viện Hải Dương chuyển tiếp ông lên Việt Đức. Sau khi chụp cắt lớp ở bệnh viện Việt Đức Hà Nội, bác sĩ kết luận sọ không bị tổn thương, chỉ rạn xương gò má trái. Cả nhà mừng rú. Bà Diễn khóc ầm lên. Thiếu tá Phú, công an huyện Cẩm Giàng, người lập biên bản tại hiện trường, nói với ông Minh, ánh mắt vừa kinh sợ, vừa ngạc nhiên: “Cháu thực sự không thể tin được tại sao chú vẫn còn sống, thậm chí không bị tàn phế bởi vụ tai nạn quá khủng khiếp này. Tổ tiên nhà chú chắc phải linh thiêng lắm mới phù hộ cứu được chú thoát khỏi cái chết. Về nhà, chú nên làm lễ tạ các cụ”.
Nhà thơ Trần Nhuận Minh đã viết văn bản yêu cầu công an không truy tố cậu lái xe tải. Vì cậu buồn ngủ nên vô tình gây ra tai nạn. Ông cũng không yêu cầu nhà xe bồi thường tiền cho cá nhân mình. Còn cái xe Mazda hư nát, ông bảo: “Đã có bảo hiểm lo”. Cậu lái xe tải, quỳ sụp xuống đất, chắp tay lạy ông, vừa khóc, vừa nói: “Chú ơi! Lúc đâm rầm vào dải phân cách, cháu mới choàng tỉnh. Mở mắt, thấy cái xe của chú bay vèo như một chiếc lá khô trong bão, y chang như trong phim Hollywood. Cháu nghĩ chuyến này cơ nghiệp nhà cháu thế là hết. Vậy mà chú vẫn sống. Chú tốt với cháu quá. Cháu đội ơn chú đời đời kiếp kiếp”.
Sau này, nhà thơ Trần Nhuận Minh đã thuật lại vụ tai nạn rùng rợn, kinh hoàng ấy trong bài thơ “Vô thức” với hai câu kết: “ Xòe hết ngàn cánh tay, chẳng chạm vào bát ngát/ Ta rùng mình rơi trong muôn thẳm Cô Đơn”.
Bố mẹ nông dân nhưng ông bà tổ tiên thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt
Từ trước đến nay, mỗi khi nhắc đến hoàn cảnh xuất thân của nhà thơ Trần Đăng Khoa, thấy tài liệu nào cũng viết: Bố mẹ anh là nông dân thuộc tầng lớp bần nông. Trong cuốn “Đối thoại văn chương”, nhà thơ Trần Nhuận Minh viết: “Thủa bé, tôi ở nhà ngoại, vì bố mẹ tôi luôn cãi nhau. Hai vị cùng tuổi (sinh 1920) không hợp tính nhau, nhưng thành gia thất là do sự sắp đặt của ông đồ và ông thày lang, tức ông nội và ông ngoại tôi. Tôi đã ghi lại điều đó trong trường ca “Đá cháy”: “Mẹ tôi vào phường cấy thuê/ Với câu hát buồn tứ xứ/ Gặp cha là lại cãi nhau/ Tôi không hiểu vì đâu/ Đứng khóc một mình không ai dỗ”. Bởi thế, người ta vô cùng ngạc nhiên khi hai vợ chồng nông dân một chữ bẻ đôi chẳng biết lại sản sinh ra một thần đồng thơ nức tiếng. Nhiều người đã lý giải rằng: Tuy mẹ Khoa là người thất học, không biết đọc, biết viết nhưng điều kỳ lạ là bà lại thuộc lòng Truyện Kiều, Phạm Công Cúc Hoa, Hoàng Trìu… Đêm đêm, trong ngôi nhà tranh vách đất nhỏ bé, vắng lặng, mẹ vẫn thường ru Khoa ngủ bằng những câu thơ Kiều. Chính những lời ru ấy đã tưới tẩm, bồi đắp nên hồn thơ thần đồng Trần Đăng Khoa. Cách lý giải trên có lý nhưng chưa đủ. Bởi thế hệ của cậu bé Khoa ngày ấy, biết bao đứa trẻ khác cùng thời cũng được lớn lên trong những lời ru Kiều của mẹ. Nhưng có ai trở thành thần đồng thơ đâu. Mẹ tôi cũng giống như mẹ nhà thơ Trần Đăng Khoa, là nông dân thất học nhưng toàn bộ Truyện Kiều, bà thuộc làu làu, thuộc đến độ bà có thể đọc ngược từ dưới lên trên. Tuổi thơ của tôi cũng thấm đẫm lời ru Kiều của mẹ nhưng tôi đâu có trở thành nhà thơ?
Lại có người cho rằng, cậu bé Khoa trở thành thần đồng thơ là nhờ anh trai, nhà thơ Trần Nhuận Minh, hơn Khoa 14 tuổi. Ngay từ năm lên 10, anh Minh đã biết làm thơ. Chính sự đi trước của nhà thơ Trần Nhuận Minh đã mở đường thơ cho Khoa sau này. Nghe cũng có lý. Cũng chính bởi cách lý giải này mà hồi cậu bé Khoa bắt đầu nổi tiếng, được dư luận “công kênh”, nhiều người đã nghi ngờ rằng: chính anh trai Trần Nhuận Minh đã làm thơ hộ cậu nên không ít người đã lặn lội hàng trăm cây số về quê cậu săm soi, “sát hạch”. Họ nhìn cậu chằm chằm từ đầu tới chân, từ sau ra trước rồi vạch tóc xem khoáy đầu, xem tai, thậm chí có người còn tụt áo quần cậu ra xem rốn bởi trong làng, rộ lên tin đồn chú bé Khoa có đuôi, khi Khoa “ị” thì phân lại hình vuông chứ không tròn như những đứa trẻ khác. Săm soi chán, thấy cậu bé Khoa cũng là người, thân hình cậu cũng bình thường như bao đứa trẻ khác, họ bắt đầu “tra khảo” cậu bằng cách ra đề bài và bắt Khoa làm thơ ngay. Họ bắt cậu làm thơ về cây chuối, cây dừa, vườn khoai, con chó chạy mất sau trận bom… Rất nhiều bài thơ hay trong tập “Góc sân và khoảng trời” được ra đời trong hoàn cảnh ấy.
Trở lại quan niệm cho rằng: chính những bài thơ của ông anh Trần Nhuận Minh đã mở đường thơ cho cậu bé Khoa sau này, tôi thấy, cũng không thuyết phục lắm. Nhiều ông bố, bà mẹ là nhà thơ nhà văn rất nổi tiếng mà các con họ chẳng viết nổi một câu văn hay một câu thơ nào. Nhà thơ Trần Nhuận Minh lại ở Vùng Mỏ Quảng Ninh từ năm 1962, mấy tháng, có khi đến nửa năm mới qua nhà, qua cũng chỉ chớp nhoáng rồi đi thì làm sao mà “kèm” được cậu em. Trong khi cậu em ngày nào cũng có khách quây bủa. Ngay cả tôi đây, tôi có một chị gái là học sinh giỏi văn toàn quốc, làm thơ rất hay. Thuở nhỏ, chị cũng kỳ công dạy tôi cách làm thơ, gieo vần nhưng cho đến tận bây giờ, khi đã trở thành một nhà báo có thâm niên hơn 20 năm, đã ra hàng chục cuốn sách được bạn đọc đón nhận rất nồng nhiệt mà tôi vẫn chẳng làm được một bài thơ nào cho ra hồn. Nhà thơ Trần Nhuận Minh, sau này, cũng từng viết: “Tôi sinh ngày 20 tháng 8 năm Giáp Thân. Nếu có thể gọi là làm thơ thì những bài thơ đầu tiên, tôi làm từ cuối năm 1954, năm tôi 10 tuổi, đúng tuổi lên 10 sau này, Trần Đăng Khoa trở nên nổi tiếng (1968). Chỉ có điều, thơ Khoa năm lên 10, ở những bài thành công, đã thấy rõ bút pháp của một nhà thơ chuyên nghiệp. Đó quả thực là một điều lạ. Còn thơ tôi, chả kể năm lên 10 làm gì, ngay cả thơ đã đăng báo, đã in sách khi đã lớn, đã nhận được giải thưởng văn học của cấp Trung ương, vẫn có nhiều yếu tố nghiệp dư. Có thể nói, toàn bộ cố gắng của thơ tôi thời gian từ 1960, tức là từ khi đã chính thức đăng báo, được giải thưởng thơ ở cơ sở, hoặc trên cấp cơ sở, tạm gọi là thành danh như người ta thường nói, đến năm 1985, vẫn là một quá trình mới vào nghề, với sự vùng thoát ra khỏi cái, mà chúng tôi gọi là “thơ phong trào”, “thơ nhân dịp”… Ví như không có ngày 1/5 quốc tế lao động thì chả ai nói đến thơ công nhân làm gì.”. Thực ra, Trần Đăng Khoa tài mà Trần Nhuận Minh cũng rất tài. Ông Minh khổ luyện mà thành tài. Còn Khoa thì, nói như nhà thơ Tố Hữu: “Trời mượn cái mồm Khoa làm thơ cho người lớn đọc”.
Vậy thì thực sự điều gì đã tạo nên tài năng thơ đặc biệt của cậu bé thần đồng Trần Đăng Khoa?
Mãi sau này, khi trở thành người em thân thiết của nhà thơ Trần Đăng Khoa, có dịp về quê anh dự giỗ Tổ của dòng họ Trần tại làng Điền Trì, huyện Nam Sách, tôi mới giật mình vỡ lẽ: thì ra dòng tộc nhà thơ Trần Đăng Khoa vốn có truyền thống khoa bảng nức tiếng. Tổ tiên anh thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt, có nhiều tiến sĩ đứng thứ nhì đất nước, chỉ xếp sau họ Vũ Mộ Trạch. Từ đường dòng họ đã được xếp hạng Di tích lịch sử và văn hóa.
Theo các thư tịch cổ thì cụ tổ chín đời của nhà thơ Trần Đăng Khoa là cụ Trần Thọ, (1639 – 1700), tự là Nhuận Phủ, đỗ tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670), làm quan đến chức Hình bộ thượng thư. Cụ là con Hàn lâm viện Thừa chỉ, Dụ Phái Hầu Trần Phúc (theo sắc phong hiện còn lưu tại Từ Đường dòng họ). Khi là Tả thị lang bộ Hộ, tước Hầu (Phương Trì Hầu), tháng 4 năm Canh Ngọ (1690), cụ Trần Thọ là phó sứ đi Trung Hoa với nhiệm vụ đòi lại đất bốn châu biên giới đã bị nhà Thanh lấn chiếm gồm: Bảo Lạc, Vị Xuyên, Thủy Vĩ và Quỳnh Nhai, trong đó Vị Xuyên nay vẫn mang tên cũ, thuộc tỉnh Hà Giang. Trong bộ sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, học giả Phan Huy Chú khen Trần Thọ là một trong số các nhà bang giao tài giỏi của nhà nước ta ở thời Lê. Cụ Trần Thọ có tác phẩm “Nhuận Phủ thi tập”, hiện còn ba bài thơ về bang giao với nhà Thanh trong “Toàn Việt thi lục” của Lê Quý Đôn.
Cụ tổ tám đời là Trần Cảnh (1684 – 1758), đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718), làm quan Tế tửu Quốc Tử Giám (tương đương Bộ trưởng Bộ giáo dục bây giờ). Trong 18 năm cuối đời, từ 1740 – 1758, cụ được phong tước Công, lần lượt giữ chức Thượng thư bốn bộ: bộ Công, bộ Hình, bộ Binh, bộ Lễ, hai lần giữ chức Tham tụng, tước Thái bảo (một trong ba tước cao nhất của triều đình), Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Thượng trụ quốc. Mặc dầu đương chức Tể tướng đứng đầu triều, cụ vẫn khẩn thiết xin vua cho về hưu. Rồi cùng nhân dân khẩn hoang, mở ấp. Cùng với việc làm ấy, cụ đã soạn bộ sách “Minh nông chiêm phả”, dâng vua Lê Hiển Tông năm Kỷ Tị (1749), được coi là bộ sách khoa học nông nghiệp đầu tiên của nước ta. Viết về cụ Trần Cảnh, nhà văn, nhà sử học Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) ghi rằng: “Làm quan đến chức công khanh mà vẫn ở trong nhà tranh vách đất như ông thì tôi chưa thấy có ai”. Khi cụ về triều nhận chức Tể tướng lần thứ hai, cả nhà chỉ có 30 quan tiền lẻ, và khi theo vua đi công cán, vợ con đói đến mức, Trần Tiến, là con trưởng, phải đến bộ Lại nhờ cấp tiền gạo cứu đói. Cụ đưa các quan đi làm việc ở đâu, đều lệnh trước cho nơi đó, cấm không được tiếp đón bằng rượu thịt, cấm giết gà lợn để thết đãi.
Cụ tổ bảy đời là Trần Tiến (1709 – 1770), tự là Khiêm Đường, hiệu là Cát Xuyên, đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1748) làm quan Phó đô Ngự sử, tước Bá (Sách Huân Bá), Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, sau thăng Lễ bộ Thượng thư, tác giả các bộ sách: Đăng khoa lục sưu giảng, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Cát Xuyên thi tập, Cát Xuyên tiệp bút, Niên phả lục… Sách giáo khoa phổ thông “Ngữ văn lớp 10 nâng cao”, vinh danh cụ là một trong 5 nhà viết ký xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam (938 – 1858) gồm: Vũ Phương Đề, Trần Tiến, Lê Hữu Trác, Phạm Đình Hổ, Lý Văn Phức. Cụ Trần Tiến sinh ra Trần Trợ (1745 - ?) và Trần Khuê… Trần Trợ, tên khai sinh là Trần Quý, lịch sử văn học Việt Nam ghi là Trần Quý Nha, làm quan Trợ giáo thái tử (dạy con vua Lê học, nên gọi là cụ Trợ), Viên ngoại lang bộ Lễ, sau làm Tri phủ huyện Đoan Hùng, Hoài Đức, tác giả tập ký “Tục Công dư tiệp ký”.
Cụ tổ sáu đời là Trần Khuê. Cụ đã cùng anh ruột là Phương Trì Hầu Trần Lương, Sùng Lĩnh Hầu Trần Thai cùng em con chú ruột là Côn Lĩnh Bá Trần Đĩnh, Thủ lệnh trấn Hải Dương và Tổng trấn Kinh Bắc Trần Quang Châu, hộ giá vua Lê Chiêu Thống khi vị vua này bôn ba ở các tỉnh phía Bắc, chưa sang cầu cứu nhà Thanh. Đến năm Tự Đức thứ 14 nhà Nguyễn (1862), các vị trên được thờ ở đền Trung Liệt, Hà Nội, cùng với ba con của Trần Đĩnh là Trần Dần , Trần Hạc và Vũ Trọng Dật (con rể).
Cụ tổ năm đời là Trần Ích, Tri phủ huyện Phú Xuyên và huyện Đồng Sơn.
Cụ tổ bốn đời là Trần Tấn (1863 – 1887), tham gia phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi, là tiểu tướng của Nguyễn Thiện Thuật. Cụ đã hy sinh năm 24 tuổi, trong một trận chỉ huy chống càn, khi quân Pháp đánh vào căn cứ Bãi Sậy.
Đến đời ông nội nhà thơ Trần Đăng Khoa chỉ là nhà nho nghèo, học giỏi nhưng người Pháp không trọng dụng. Ông dạy học tư ở xã xa, lấy con gái ông chủ nhà trọ, gia cảnh sa sút, đói nghèo.
Khám phá ra sự thật về gia tộc thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt của nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi mới phát hiện ra rằng: cái hun đúc nên tài thơ đặc biệt của cậu bé được mệnh danh là thần đồng khi mới 7-8 tuổi đầu ấy chính là dòng nguyên khí của tổ tiên bao đời với những tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử nước Việt. Dòng nguyên khí ấy bị gián đoạn một vài chặng cho đến khi cậu bé Khoa chào đời, cậu đã đủ đầy nhân duyên để lĩnh hội và tỏa sáng, trở thành một thần đồng thơ lừng lẫy, một nhà văn, nhà báo nổi tiếng như bây giờ.
Đào phá mộ tổ và cái chết rùng rợn của những kẻ ghen ăn tức ở
Việc chú bé Khoa mới 8 tuổi đầu đã làm thơ như thần trở nên nổi tiếng cả nước và cả ở nước ngoài, được dư luận đặc biệt quan tâm. Ai cũng yêu quý, ngưỡng mộ cậu. Nhưng mấy vị ở làng bên lại tỏ ra không vui vì sinh lòng ghen ghét. Cậu bé Khoa càng nổi tiếng, sự ghen ghét càng lớn. Đỉnh điểm là năm 1968, khi bé Khoa tròn 10 tuổi, được xuất bản tập thơ riêng đầu tay “Góc sân và khoảng trời”, thơ Khoa được nhà thơ nổi tiếng Madeleine Riffaud giới thiệu trên hai trang báo Nhân đạo của Đảng cộng sản Pháp xuất bản ở Paris với tựa đề “Thơ Trần Đăng Khoa, tiếng hát mạnh hơn bom đạn”. Rồi sau đó, đoàn quay phim Pháp, do đạo diễn Gérard Guillaume về làng Điền Trì quê cậu quay phim “Thế giới nhỏ của Khoa”. Một số vị chức sắc, người làng bên, kiên quyết không cho quay. Trong lời bình phim, nhà thơ Pháp G. Guillaume có viết: “Cả làng xã quyết tâm bảo vệ bé Khoa, không muốn chúng tôi làm phim về cậu. Chúng tôi đã phải tạo ra một cái cớ, là làm một bộ phim về cuộc sống hằng ngày của thiếu niên xã Quốc Tuấn với sự “đồng lõa” của chị Trần Thị Duyên. Nhờ thế mới có được hình ảnh của cậu mà các bạn đang xem”. Chị Duyên là cán bộ phụ trách thiếu niên nhi đồng của Tỉnh Đoàn thanh niên lao động Hải Dương, người được Bí thư tỉnh ủy Ngô Duy Đông rất quý trọng. Cô thường về làm việc với lãnh đạo xã, có lần mang cả thư tay của ông Ngô Duy Đông, gửi bí thư xã về việc quan tâm đến cháu Khoa: “Không được cho người vào nhà Khoa hỏi giấy tờ của khách khi khách đến thăm, rồi tìm cớ trục xuất họ. Bảo vệ cháu Khoa theo cách đó là không có tác dụng tích cực”. Vì thế chị được lãnh đạo xã nể trọng.
Trong mấy ngày quay, đoàn làm phim đề nghị xã chọn cho 2-3 thanh niên phục vụ đoàn. Chẳng hiểu sao, ba vị chức sắc ở 3 làng khác nhau lại tự nhận làm. Mấy ông người Pháp cứ tưởng họ là người giúp việc nên sai bảo suốt ngày khiến mấy vị rất bực tức. Cuối cùng, họ trút cơn giận xuống bé Khoa, xuống gia đình cậu bằng một hành động rất thâm độc, đó là đập phá ngôi mộ cụ tổ 7 đời là nhà văn Trần Tiến vì họ tin rằng: Khoa thành tài như vậy chính là nhờ ngôi mộ này phát “chứ cái nhà nó trông rách nát như cái chuồng lợn, làm sao đẻ ra được thứ con rồng, con phượng như thế”.
Hầu hết mộ phần các cụ tổ của Khoa đều đặt trên đất làng. Duy chỉ có mộ cụ Trần Tiến là nằm chênh vênh ở gianh giới giữa đồng của 2 làng bên. Năm 1968, lấy cớ xây trận địa bắn máy bay Mỹ, ông Đ., đã giao cho anh T. cùng mấy dân quân khác đặt khẩu đại liên rồi đào hầm tránh bom ngay cạnh mộ cụ. Đào sâu chừng 1m thì thấy chiếc quách dài hơn 2m, rộng 80cm. Anh T. nghiến răng nghiến lợi, dùng xà beng đâm vỡ quách, để lộ ra chiếc quan tài đỏ sậm màu huyết dụ. Những người phá mộ tưởng trong quan tài có vàng bạc hoặc đồ cổ quý giá. Cậy nắp mãi không được, vẫn chiếc xà beng trên tay, anh ra sức đâm, chọc. Nửa trên quan tài vỡ toác. Bên trong, cụ Trần Tiến da thịt vẫn còn tươi nguyên, đầu đội mũ cánh chuồn, tóc bạc trắng như cước, dài đến vai, trùm ra ngoài áo gấm, đến tận cái đai tía ngang lưng. Xung quanh cụ xếp hàng chồng sách chữ nho. Hai bàn tay anh T. thô bè với những ngón tay trùi trụi như những quả chuối, lục tung đống sách và quần áo cụ để tìm vàng. Nhưng chẳng có gì ngoài sách. Anh ta xé từng cuốn rồi ném tung lên trời. Gió đồng hun hút thổi, giấy lả tả bay trắng đồng. Đám trẻ chăn trâu tranh nhau nhặt những tờ giấy bản có chữ nho về dán diều. Bố Khoa nước mắt lưng tròng, mang về nhà một mảnh quan tài vỡ, to hơn bàn tay, gỗ đỏ thẫm, trong có những đường vân màu hổ phách, mùi rất thơm. Anh Minh thì xuýt xoa tiếc những cuốn sách chữ nho bị xé. Anh ngờ rằng, rất có thể, đó là các tác phẩm đem chôn theo của nhà văn Trần Tiến. Bởi chính cụ đã ghi tên một số tác phẩm của mình trong “Niên phả lục” mà nay không thấy còn. Cụ còn ghi ra giấy, dặn con cháu rằng: “Chớ nên để cho người ngoài đọc”.
Ông Đ. chỉ huy việc phá mộ chứng kiến toàn bộ cảnh ấy cười hỉ hả. Rồi nóng lòng chờ đợi một ngày kia, cậu bé thần đồng sẽ bị thui chột. Không dừng lại ở đó, lợi dụng quyền sinh quyền sát trong tay, họ đã làm nhiều việc rất hiểm độc và tàn ác đối với Khoa và gia đình Khoa, mà tôi không tiện nói ra đây. Đến khi về làng Khoa vài lần, kể cả dự lễ trùng tu mộ cụ Trần Tiến, tôi mới xót xa mà nhận ra rằng, những gì báo chí những năm đó rôm rả nói về sự quan tâm săn sóc với tài năng đặc biệt của Trần Đăng Khoa, không những không có thật mà còn hoàn toàn ngược lại.
Nhưng rồi Ông Trời đã làm phần việc của mình. Và chỉ một thời gian sau, không hiểu ông vướng vào tội gì mà bị bắt. Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xử, tuyên án tù chung thân. Ông bị cùm chân tay, nghĩ cũng tội . Và khi cho tạm thời tại ngoại để chữa bệnh, ông ra tù được ít ngày thì chết bất đắc kì tử, có khi ở trong thì thì lại chưa chết, cái chết cũng dữ dội lắm, nghe bà con kể thế. Còn anh trưởng nhóm dân quân T… người trực tiếp đập phá mộ, bị đau ruột thừa. Chẳng biết có phải lỗi bác sĩ không mà vết mổ bị nhiễm trùng rất nặng, phải mổ đi mổ lại đến 9 lần. Có lần, bác sĩ còn bỏ quên cả dao kéo trong bụng anh. Cuối cùng, ruột bị hoại tử phải cắt bỏ. Anh đã phải sống như bị trời đày đến non 25 năm bằng một mẩu ruột. Uống cái gì vào miệng là nước òng ọc chảy ra hậu môn. Đau đớn vô cùng, ngày đêm quằn quại kêu khóc. Muốn chết mà không chết được. Vợ anh đi xem bói, thầy phán, anh bị quả báo do tạo nghiệp ác. Muốn bớt nghiệp, cần phải sám hối. Gia đình đã bí mật nhờ người sắm lễ đến từ đường nhà bé Khoa rồi ra ngôi mộ bị phá thắp hương tạ tội. Thế mà mãi hơn một tháng sau, anh T. mới chết được.
Có một lần, duy nhất một lần thôi, tôi gợi những chuyện đó, xem Khoa có bàn gì thêm không, Khoa gạt đi ngay: “Trời đã xử họ thế theo luật nhân quả là quá nặng, gia đình mình cũng đã quên rồi. Ngẫm lại thấy họ cũng thật đáng thương. Chỉ tiếc là minh đã không làm được gì để cứu họ và an ủi họ… Hơn nữa mình rời làng quê đã lâu, khi về làng có nghe kể thì việc cũng đã qua rồi”. Chứng kiến cái chết thê thảm của anh T., nhiều người dân bảo: “Ông trời quả là có mắt đấy. Lưới trời tuy thưa mà không để lọt. Luật nhân quả xưa nay có chừa một ai. Đúng là gieo nhân nào thì sẽ gặt quả ấy. Mọi người cứ ngẫm mà xem, không sai đâu”.