Nhớ bác Tô Hoài

(tacphammoi.net). Nhà văn Tô Hoài đã qua đời sáng ngày 6/7/2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi. Ông sinh ngày 27/9/1920, tại quê nội ở huyện Thanh Oai,tỉnh Hà Đông nay thuộc Hà Nội, trong gia đình thợ thủ công. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức; tên thật của ông là Nguyễn Sen.Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ. Tacphammoi.net trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ Trần Đăng Khoa về Nhà văn Tô Hoài.

Nhà văn Tô Hoài đã giã biệt chúng ta để đi vào cõi không cùng. Đó là một tổn thất không gì bù đắp được.

 

Tôi rất mê ông. Mê từ khi mới lẫm chẫm bước chân đến trường. Hồi đó tôi đã có thơ tặng ông, dù chưa từng được nhìn thấy ông ở trong đời thực. Đó là dịp tháng 4 - 1967, tình cờ tôi đọc được một truyện ngắn viết cho trẻ em của ông. Cái truyện có tên là Ò... ó... o... Truyện kể một cậu bé ở thành phố, về nghỉ hè ở nhà bà ngoại. Bà sống ở quê. Suốt ngày cậu chạy nhảy, vui chơi với bao trò chơi thú vị mà ở thành phố không có. Mới chập tối, mệt quá, cậu thiếp đi. Ngủ chưa được bao lâu, mắt vẫn cay sè, đã nghe gà gáy inh ỏi. Ngoài cửa nhờ nhờ. Cậu bé nhìn ra, thấy bà vẫn cặm cụi thái lá dâu cho tằm, dì vẫn kì cạch dệt lụa. Chưa có ai đi ngủ cả. Trời mới tối được một lúc. Thế sao gà đã gáy? À, đấy là mấy chú gà nhầm, thấy ánh điện nhà máy bên kia sông hắt sang, gà tưởng sáng nên thi nhau gáy. Cái truyện chỉ có thế. Nhà văn Tô Hoài ca ngợi sự đổi mới của nông thôn. Đấy là một chủ đề khá phổ biến trong văn chương Việt Nam những năm sáu mươi. Hồi ấy, tôi rất thích cái truyện ngắn này. Cái truyện gợi cho tôi viết bài thơ Ò...ó...o... với nội dung khác hẳn. Nhưng “ò...ó...o...” là chữ của Tô Hoài. Trong sách Tập đọc lớp ba của chúng tôi thời ấy, tả tiếng gà, người ta lại dùng chữ “cúc cù cu”. Một bài Học thuộc lòng thời ấy thế này: “Cúc cù cu! Cúc cù cu! Sáng rồi đây.Nông dân vác cuốc vác cày. Ra đồng cày cuốc cho đầy nồi cơm”...Những bài học thời ấy phải nói là rất nôm na, dễ dãi. “Cúc cù cu” là tiếng chim bồ câu gù chứ không phải tiếng gà. Nếu lấy tiếng chim bồ câu để báo sáng thì không phổ cập. Vì chỉ những gia đình trung nông trở lên mới nuôi chim bồ câu. Còn với những người nông dân “Vác cuốc vác cày. Ra đồng cày cuốc cho đầy nồi cơm” thì chỉ tiếng gà mới gần gũi với họ. “Ò... ó... o...” quả là một đóng góp của Tô Hoài. Tôi lấy mấy chữ ấy của ông. Và để tỏ lòng biết ơn ông, sau tên bài Ò... ó... o... tôi đã ghi một dòng rất trang trọng : “Kính tặng chú Tô Hoài”, dù lúc ấy, tôi chưa từng gặp ông, và ông cũng chẳng biết tôi là cái thằng bé cha vơ chú váo nào...

Tô Hoài là một nhà văn lớn, một ông khổng lồ với số lượng tác phẩm thật đồ sộ. Ông viết đủ các thể loại: từ tiểu thuyết, truyện vừa, bút ký, ký sự, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện, tiểu luận phê bình, truyện viết cho thiếu nhi, cho đến cả các bài báo ngắn, các bài điểm sách chỉ bằng một... bàn tay trẻ con. Tô Hoài thực sự là nhà văn chuyên nghiệp. Nghĩa là ông hoàn toàn sống được bằng nghề văn. Ngồi đâu, ông cũng viết được văn, kể cả trong những lúc hội họp. Có người còn kể rằng, trong một hội nghị quốc tế sang trọng, Tô Hoài ngồi ghế chủ tịch đoàn điều hành cuộc họp. Người ta ngạc nhiên khi thấy ông cứ lật sổ viết nhoay nhoáy. Tưởng Tô Hoài ghi biên bản hội nghị. Hoá không phải. Ông đang viết tiểu thuyết. Không ít tác phẩm nổi tiếng của Tô Hoài đã ra đời trong những hoàn cảnh đặc biệt như thế. Ta hiểu vì sao Tô Hoài có được một lượng sách thật đồ sộ: 215 tác phẩm, nhiều hơn gấp đôi số tuổi đã sống trên trần gian của ông. Đó là một con số kỷ lục mà không phải nhà văn lớn nào trên thế giới cũng có thể đạt tới được.

Tô Hoài là nhà văn không có tuổi già. Ở ông không có dấu hiệu của tuổi già. Một trí tuệ tỉnh táo và thông minh đến mức... tinh quái. Ông cũng là trường hợp duy nhất ở Việt Nam: Là một nhà văn lớn, một học giả lớn, với kiến thức khổng lồ, mà trình đọ học vấn chỉ ở bậc … Tiểu học. Nói đúng ra, như ông kể với tôi, ông mới chỉ học hết lớp …ba, rồi đi kiếm sống. Cuộc sống chính là trường học lớn của ông. Ông bảo: “Đã là nhà văn thì phải có nhân vật và chi tiết. Mà chi tiết với nhân vật thì chỉ có ở trong cuộc sống thôi”. Đời sống chính là trường học vĩ đại của Tô Hoài.

Trong đời, may mắn sao, tôi cũng đã có dịp sống cùng Tô Hoài trong suốt nửa tháng ở Nhà Sáng tác Đại Lải, Vĩnh Phúc. Đó là dịp Bộ Giáo dục mời Ban Giám khảo cuộc thi viết về nhà giáo và Nhà trường. Trong Ban Giám khảo, gồm toàn những nhà văn lớn, Tô Hoài cao tuổi nhất, còn tôi lại là gã ít tuổi nhất. Bởi thế, Ban Tổ chức đã xếp tôi ở cùng phòng với ông, để giúp ông những việc lặt vặt. Tôi cũng rất khoái vì có dịp được chiêm ngưỡng bác …Dế Cụ, cha đẻ của chàng…Dế Mèn. Tôi rất kinh ngạc khi Tô Hoài ngủ rất sớm. Chưa đến tám giờ tối, ông đã ngủ rồi. Ngủ hồn nhiên như một …chú bé 14 tuổi. Không ngáy, cũng không trằn trọc như một người già. Ông ngủ thẳng một mạch cho đến ba giờ sáng thì lặng lẽ dậy, rồi đi lại ru như một chú mèo nhung. Ông che đèn để không ảnh hưởng đến người bên cạnh và bắt đầu đọc. Ông đọc rất nhiều, nhưng toàn đọc báo lá cải và những tờ báo chuyên ngành rất xa với văn chương. Ông bảo, ông không bao giờ xem truyền hình. Chỉ nghe Đài Tiếng nói Việt Nam. Đi đâu, ông cũng mang theo cái đài nhỏ. Vậy mà không biết ông thu nạp kiến thức từ đâu. Chạm đến lĩnh vực nào ông cũng biết và biết rất thấu đáo. Ngay cả những cây cỏ quanh ta, như cây phi lao, rảnh bèo tây, hay cỏ lồng vực, ông có thể nói một cách rành rẽ chúng xuất phát từ đâu, xuất hiện ở Việt Nam bắt đầu từ năm nào? Tô Hoài như một Từ Điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa Toàn thư mà không Viện sĩ nào, không Học giả nào có thể sánh được. Tôi đã có dịp tò mò hỏi ông về Hà Nội và rất ngạc nhiên. Tôi không ngờ ông hiểu Hà Nội sâu sắc đến thế. Tôi gọi ông là Nhà Hà Nội học, dù ông không nghiên cứu.

- Không! Tôi không phải là nhà Hà Nội học. – Nhà văn Tô Hoài cười - Tôi hiểu Hà Nội thì cũng là hiểu một cách rất tự nhiên thôi. Tôi sinh ở Hà Nội. Hà Nội trước thế nào thì bây giờ tôi thấy nó cũng vẫn như thế...

- Nghĩa là không có gì đổi khác ư?

- Có chứ! Nhưng đó là những khu vực ngoại thành và những khu mới mở, như đường Hoàng Quốc Việt, hay các khu phố mới. Còn các khu phố cũ vẫn thế. Nhà cửa có thể khác tý chút, có tân trang hơn hoặc nâng thêm tầng, nhưng đường phố vẫn vậy, nên phố phường Hà Nội, về cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Ngày xưa thế nào thì bây giờ vẫn thế. Tôi có thể nhắm mắt đi đến khu phố nào cũng được. Vỉa hè vẫn vỉa hè cũ. Ở các phố Ngô Quyền, Hàng Khay, Tràng Tiền, Hàng Bài, hay Nguyễn Xí, Đinh Lễ, đầu vỉa hè còn bọc đá xanh. Đấy là vỉa hè xưa, vỉa hè đầu tiên của Hà Nội đấy. Đá bọc vỉa hè là đá lấy từ núi Thầy, núi Trầm. Lý do dùng đá ốp vỉa hè cũng đơn giản, vì dạo ấy ta chưa có lắm xi- măng. Đi trên đường Hà Nội, tôi thấy quen thuộc vô cùng. Cả hệ thống cống ngầm bên dưới cũng thế, cũng vẫn là hệ thống cũ. Vì thế, bây giờ mưa, đường Hà Nội ngập úng là tất nhiên, vì quá tải. Hệ thống cống ngầm xưa chỉ đủ phục vụ cho mấy vạn người. Đến bây giờ là 5 – 6 triệu người. Một thằng bé cõng cả một ông Khổng lồ thì điều gì đến tất sẽ đến. Có gì đâu mà lạ. Ta còn thấy những nắp cống tròn còn nguyên cả dòng chữ Marseille. Đó là nắp cống đúc từ bên Pháp, rồi mang sang bán ở ta. Hồi bấy giờ, ở phố Quán Thánh, ngay cạnh đền Quán Thánh bây giờ, Pháp còn mở công ty Sacric. Đấy là công ty gạch ngói Đông Dương. Khu sản xuất khá rộng, đến mấy ngàn mét vuông. Đất sét đóng gạch lấy ở Quán La, bên kia Tây Hồ, rồi dùng thuyền chở sang. Thuyền bè bấy giờ tấp nập lắm. Đúng là trên bến dưới thuyền.

- Thế còn Hồ Tây bây giờ thì sao?

- Bây giờ Hồ Tây bị thu hẹp lại vì trò lấn đất. Trước đây rộng lắm. Ngút ngát cả một vùng trời nước. Xung quanh hồ, um tùm cây lá rậm rạp. Ven bờ, người ta còn thả sen. Nhiều sen lắm. Sau bỏ sen để nuôi cá mè, vì cá mè hay rúc vào bãi sen, tróc vảy chết. Trước đây, ở Hồ Tây không có cá mè đâu. Người ta chỉ thả một loại cá trắm. Cá mè tanh. Dân Hà Nội không ăn, nên chỉ có ở ao quê.

- Thế còn các khu phố Hà Nội thì sao bác?

- Địa giới Hà Nội xưa rất hẹp. Đi hết trường Chu Văn An bây giờ đã là đất Hà Đông rồi. Làng Yên Phụ cũng thuộc đất Hà Đông. Người Pháp xưa đặt tên Đường, tên Phố rất rành rẽ. Phố là địa giới nằm trong khu vực nội thị, còn Đường là nối với các tỉnh khác. Cuối Đường đã là tỉnh khác rồi. Ví như Đường Huế nối với Hà Đông, Đường Hàng Bột, hay Đường Bạch Mai cũng thế. Cuối đường là địa phận của tỉnh khác. Về mặt hành chính, Hà Nội được chia ra làm bốn khu. “Khu phố cổ”, bao gồm địa danh của 36 phố phường xưa, như Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Thiếc vv... Rồi “khu phố cũ” là khu phố xây dựng từ thời Tây, có những biệt thự kiểu Tây, như phố Hàng Khay, Tràng Thi, Bùi Thị Xuân, Huyền Trân Công Chúa, Phan Đình Phùng, hai bên đường, có vỉa hè xây và trồng cây hai bên, cành lá giao nhau, nói như cụ Phạm Quỳnh, và dùng chữ của Cụ Phạm thì đấy là “đường thông cù”. Đó là khu ở của những ông Tham, ông Phán hoặc dân nhà giàu...”Khu phố mới”, là khu phố được nới ra, xây dựng sau này. Còn khu thứ tư là “khu dưới bãi”, nơi ở của dân cu ly cu leo...

- Chắc đó là vùng Nghi Tàm, Yên Phụ bây giờ?

- Không, từ Yên Phụ đến Nghi Tàm xưa là đất trồng dâu, trồng ngô. Còn khu dưới bãi là vùng An Dương, Chương Dương, Long Biên bây giờ...

- Bác vừa nói đến phố cổ. Tôi thì lại ngờ ngợ rằng, hình như Hà Nội mình, trừ các chùa chiền và Văn Miếu, một công trình kiến trúc có tuổi thọ ngót một ngàn năm, sau được trùng tu, tôn tạo qua rất nhiều đời, còn thì chúng ta không có phố cổ mà chỉ có phố cũ. Bao gồm cả phố cũ xưa ta xây và phố cũ sau này Tây xây. Đó là Ba mươi sáu phố phường xưa và những khu phố có biệt thự Tây như bác vừa nói. Bởi vì những khu phố đó có rất nhiều nhà chỉ xây cách đây chừng hơn một trăm năm thì sao lại gọi là phố cổ được? Ở Nga, có những thành phố cổ như Xuzđan xây dựng cách đây hơn 11 thế kỷ, trong đó có những căn nhà gỗ, tường xếp bằng nguyên cả những cây gỗ, mái cũng lợp gỗ. Trong nhà vẫn còn nguyên cả những đồ đạc có cách chúng ta 1200 năm. Ở ta, nếu có phố cổ thì đấy chính là Hội An. Một khu phố rất lạ. Kiến trúc khá độc đáo. Hội An có một vùng văn hoá riêng, một bầu không khí cũng rất riêng biệt. Hàng tháng, cứ vào đêm 14 là người ta tắt hết điện, thắp đèn lồng. Những căn nhà gỗ trông rất cổ kính. Vào trong nhà không khí khác hẳn, nhiệt độ cũng mát hẳn. Người ta lấy gió tự nhiên làm điều hoà nhiệt độ cho cả căn nhà. Ở đó không có AIDS, không có kẻ cắp, trấn lột và những kẻ lừa đảo. Tóm lại, những cái xấu, cái hỗn tạp của những đô thị hiện đại không du nhập được vào khu phố cổ này. Người dân sống giữa một bầu không khí trong vắt như ở hồi thế kỷ 17. Ngay cả việc buôn bán của họ cũng rất lạ lùng. Tôi mua một cái quần bò. Bà chủ quán hỏi rất cặn kẽ: "Chú định mặc một lần hay muốn dùng lâu dài? " Khi biết tôi thuộc dân "ăn chắc mặc bền", bà chủ quán khuyên tôi nên sang cửa hàng khác. Không xa đâu. Chỉ cách quán bà có ba nhà thôi. Bà bảo đồ của bà không tốt. Chỉ qua vài lần giặt là vải xù ra. Tôi không thấy ở đâu có người bán hàng lạ lùng như thế. Nếu đã mua hàng rồi mà không ưng, hôm sau có thể mang trả lại. Người bán sẽ hoàn lại nguyên tiền, không bớt đi một xu, cũng không hề tỏ vẻ trách móc. Đấy là buôn bán theo lối cổ, ở một thời xã hội còn trong veo. Hà Nội chẳng bao giờ có chuyện như thế...

- Nói Hà Nội không có phố cổ thì cũng không hẳn. – Nhà văn Tô Hoài nói - Hà Nội không có khu phố cổ nhưng có nhà cổ. Ví như nhà số 38 Hàng Đào và 87 Mã Mây. Hai ngôi nhà cổ này đã được Pháp đầu tư tài trợ để bảo tồn. Có thể rất dễ dàng nhận ra nhà cổ. Nhà cổ có hai cửa. Cửa trước dành cho chủ nhà đi. Cửa sau dành cho gia nhân, đầy tớ, hoặc chuyển phân rác và đồ phế thải. Hà Nội xưa có những vùng riêng biệt. “Thành thị” không phải là một từ chung đâu. Đó là hai khu cụ thể. “Thành” là nơi vua quan ở, còn “Thị” là nơi ở của dân chúng, chủ yếu là dân buôn bán, phục vụ cho “Thành”. Vua quan trong thành thỉnh thoảng ra đường, nên thường qui định dân chúng chỉ được ở nhà trệt, không làm nhà gác, hoặc nếu có nhà gác thì không được trổ cửa sổ hoặc làm ban-công chìa ra đường, vì vua quan đi ở bên dưới. Không ai được đứng trên đầu vua. Bởi thế, nhà cổ không có ban công hoặc cửa sổ trổ ra đường. Tôi cũng đồng ý với anh Dương Trung Quốc là chúng ta nên xác định rõ đâu là nhà cổ để gìn giữ, trùng tu, còn đâu là những ngôi nhà cũ để cho dân được tôn tạo, nâng cấp, hoặc xây dựng lại. Bởi nhiều nhà tối tăm, xập xệ quá. Thực chất đó là những khu nhà ổ chuột. Đã thế, vệ sinh lại không bảo đảm, vừa ô nhiễm môi trường, vừa làm mất cảnh quan đô thị...

- Ở Hà Nội, trong số 36 phố phường như bác nói, có những tên phố rất lạ: Hàng Đường, Hàng Quạt, Hàng Nón, Hàng Mắm, Hàng Thiếc, Hàng Thùng, Hàng Buồm, Hàng Trống... Nghe cứ như tên các quán hàng. Có cảm giác Hà Nội là một cái chợ khổng lồ. Chắc ngày xưa mỗi khu phố là một nơi sản xuất và buôn bán các mặt hàng riêng biệt. Ví như Hàng Rươi bán rươi, Hàng Mắm bán... mắm chẳng hạn?

- Không hẳn thế đâu – Nhà văn Tô Hoài cười - Có rất nhiều mặt hàng, người ta sản xuất ở quê, ở Hà Đông và các vùng phụ cận, rồi đem ra bán ở Hà Nội. Như đồ gò đúc đồng, rồi guốc dép, mũ nón. Trước đây, Hà Nội còn có phố Hàng Tiện và phố Hàng Dép nữa. Đó là hai phố nhỏ. Phố Hàng Tiện ở bên Hàng Gai trông ra phía Bờ hồ, phố Hàng Dép ở đầu Hàng Buồm. Hai phố này, năm 1945 bị phá huỷ trong những cuộc giao tranh với Pháp, rồi cũng từ đấy bị mất phố luôn.

- Thế còn những phong tục tập quán ở Hà Nội?

- Hà Nội không có phong tục tập quán gì cả. – Nhà văn Tô Hoài giải thích - Trước đây, Hà Nội là đất nhượng địa cho Tây. Một anh đi ăn cắp chẳng hạn, nếu bị xử ở Hà Nội có thể sẽ rất nhẹ, nhưng nếu xử ở Hà Đông, trong toà án An Nam thì nặng hơn nhiều. Hà Nội theo luật lệ riêng của Tây. Muốn làm gì cũng phải xin phép Tây. Ngay cả việc dạy học tư, cứ có từ năm học sinh trở lên là đã phải xin phép. Muốn có hội hè đình đám là phải tập hợp rồi. Tây rất ngại sự tụ tập của dân chúng. Nó sợ ta gom quân đánh nó. Vì thế đình đám chỉ có thể tổ chức được ở các làng quê. Mà không phải làng quê nào cũng có hội đâu. Hội hè rước xách còn phụ thuộc vào sự tích của các ông Thánh ở làng. Không phải làng nào cũng có ông Thánh, nên không thể cứ rước xách tùm lum được. Làng Nghĩa Đô quê tôi cùng lắm cũng chỉ làm được một đêm chèo.

- Nếu cần nói thật ngắn gọn về tính cách người Hà Nội thì bác sẽ nói thế nào? Thanh lịch hào hoa chăng? Ca dao xưa: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài - Chẳng thanh lịch cũng là người Tràng An”?

- Hà Nội do dân tứ phương lập lên. Người Hà Nội gốc có lẽ chỉ là mấy anh đánh cá ở sông Tô Lịch. Mà Tô Lịch chỉ còn là một phế tích. Chẳng có ai sống ở Hà Nội được đến mười đời. Vì thế muốn hiểu tính cách người Hà Nội, ta phải tìm hiểu tính cách chung của người Việt Nam, rồi nghiên cứu cá tính người thành thị thì mới ra tính cách người Hà Nội. Tất nhiên người Hà Nội có nét hào hoa phong nhã, nhưng đấy không phải tận gốc mà là tinh hoa của nhiều vùng đất tạo nên. Dân Hà Nội là dân tứ chiếng. Vì thế, ở Hà Nội tuyệt nhiên không có chuyện cục bộ địa phương. Bất cứ ai cũng có thể về làm Lãnh đạo Hà Nội. Tôi cho đó cũng là một nét rất hay của Hà Nội.

- Bác đã nói Hà Nội trước đây thế nào thì bây giờ vẫn thế...

- Đúng vậy. Chỉ bổ sung thêm mà ít thay đổi. Về cơ bản, ta vẫn giữ nguyên như cách bố trí, sắp đặt của ông Trần Văn Lai.

- Xin bác nói rõ hơn được không?

- Trần Văn Lai là một bác sĩ. Ông là người tốt, người yêu nước. Chính vì thế, thực dân Pháp đã bỏ tù ông. Tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, ông được ra tù và được mời làm Thị trưởng thành phố. Trần Văn Lai chỉ làm Thị trưởng có 5 tháng, từ tháng Ba đến tháng Tám năm 1945, nhưng ông đã làm được hai việc rất cơ bản. Một là đập hết các tượng đài của Pháp, chỉ để lại hai tượng bán thân là tượng Yersin và tượng Pasteur. Hai là thay lại các tên phố. Trước đây, phố Hà Nội hầu hết mang tên Tây, hoặc tên những người Việt có công với Tây. Một số danh nhân của ta cũng được đặt tên, nhưng lại ở những phố tồi tàn, bẩn thỉu, hoặc hẻo lánh. Ông Trần Văn Lai thay lại hết. Tất nhiên, ông thạo võ hơn văn. Dân văn chương thì ông chỉ biết Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm cho đến Tú Xương là hết. Dân võ ông biết nhiều hơn. Tất cả những người ông biết, ông đều đặt hết tên phố. Đặc biệt, ông rất yêu các vị võ tướng. Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Yết Kiêu, Dã Tượng, Bùi Thị Xuân, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... Toàn là các võ tướng lừng danh cả. Rồi lại cả Ba Đình nữa. Tôi có đọc trong một tờ báo, thấy có anh giải thích rằng trước đây ở khu Quảng trường này có ba... cái đình nên Quảng Trường mang tên Ba Đình. Thật buồn cười. Làm gì có cái đình nào ở đấy cơ chứ. Ba Đình là nơi có cuộc khởi nghĩa của ông Đinh Công Tráng ở Thanh Hoá. Quảng trường mang tên cuộc khởi nghĩa ấy. Sau này, ta định đổi thành Quảng trường Độc Lập để ghi nhớ ngày 2-9-1945. Nhưng Cụ Hồ không đồng ý. Cụ bảo, mình đã tuyên bố với thế giới là Tuyên ngôn Độc lập đọc ở Quảng trường Ba Đình rồi, giờ không nên thay đổi nữa. Pháp tái chiếm Hà Nội, chúng thay là Quảng trường Hồng Bàng. Sau khi ta thắng Pháp, Quảng trường trở lại tên Ba Đình, đúng như cái tên ông Trần Văn Lai đã đặt.

- Thế còn việc phá bỏ tượng đài?

- Hà Nội cũ rất lắm tượng. Riêng tượng hoành tráng, tượng toàn thân đã có khoảng hơn chục cái. Còn tượng bán thân thì rất nhiều. Nhưng cũng đều là tượng Tây, hoặc tượng những người có công với Tây, được dựng nhân ngày kỷ niệm gì đó của Pháp. Như ở vườn hoa Inđira Ganđi bây giờ, trước đây có tượng toàn thân ông Toàn quyền Paul Bert. Rồi tượng Nữ thần Tự do. Cái tượng người đàn bà giơ cao ngọn đuốc dựng ở Hoa Kỳ, thành một danh thắng của Mỹ, do Pháp tặng ấy, trước đây đã có ở Hà Nội rồi. Dân mình gọi nôm na là tượng Bà đầm xoè. Cái tượng này thoạt đầu đặt trên nóc Tháp Rùa ở giữa hồ Hoàn Kiếm. Sau báo chí Pháp chửi ghê quá. Họ cho rằng cái tượng lớn như thế mà lại đặt chênh vênh trên bốn cái cọc sắt thì không được bề thế và chắc chắn. Thêm nữa để đàn bà trùm váy lên đền miếu là không tôn trọng phong tục tập quán của người bản xứ. Bức tượng được đưa về đặt ở vườn hoa Cửa Nam, gần chỗ bục Công an ở chợ Cửa Nam bây giờ. Còn một bức tượng hoành tráng rất đồ sộ nữa đặt ở vườn hoa Canh Nông, chính là khu vực bây giờ mình đặt tượng Lênin.

- Tôi nghĩ rằng, cụ Trần Văn Lai rất hiểu người Việt và người phương Đông nói chung. Dân mình không mặn mà lắm với tượng đài. Yêu ai, sùng kính ai thì họ lập chùa chiền đền miếu để thờ, rồi còn hương khói cúng tế. Không ai cắm hương dưới chân các bức tượng đá ngoài trời cả. Dân mình là dân có tín ngưỡng. Đình chùa, đền miếu mới chính là "tượng đài" của người Việt. Thần linh phải vô hình, phải âm âm u u thì mới thiêng. Thần linh mà phơi mặt ra giữa thanh thiên bạch nhật thì không còn là thần linh nữa. Còn những bức tượng đá ngoài trời là công trình văn hóa phương Tây, nó hợp với văn hoá tập quán và khí hậu phương Tây. Ở ta bão gió, mưa nắng đều rất dữ dằn, chưa kể chim muông nó đỗ lên, có việc gì mà nó không làm. Vì thế chỉ sau vài năm là tượng sứt sẹo, mốc thếch, trông rất nhem nhuốc. Các nhà quản lý văn hóa rất nên nghiên cứu kỹ tâm lý, quan niệm của dân ta và khí hậu cũng như các điều kiện khác của ta trước khi dựng tượng đài. Bỏ ra hàng trăm tỉ đồng dựng những bức tượng mà dân không đến thì có nên không? Thế còn vườn hoa Canh Nông. Thưa nhà văn Tô Hoài, tại sao lại gọi là vườn hoa Canh Nông?

- Cái tên ấy cũng do dân gọi mà thành. Đơn giản thôi, vì ở đấy có cái tượng rất lớn. Cái tượng này được dựng nhân dịp Pháp kỷ niệm cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). Trên đỉnh là một thằng lính Tây và một lính Ta (lính ngụy) cùng chĩa súng bắn vào cột cờ Hà Nội. Dưới là bốn mặt Sĩ, Nông, Công, Thương. Sĩ là ông thầy đồ cắp cái tráp. Công là một anh kéo cái xe cút kít (loại xe một bánh). Thương là một mụ đàn bà te tái gánh đôi quang thúng. Còn Nông là anh thợ cày đang bước sau con trâu. Cái bụng trâu to đùng và anh nông dân đang cày chiềng ra phía đường, nên ai qua cũng thấy. Còn ba mặt Sĩ, Công, Thương chìm trong cây lá và ở phía sau nên nhiều người không biết. Người ta chỉ thấy ở đấy có anh nông dân đang cày nên gọi là vườn hoa Canh Nông. Đằng sau bức tượng là cái đình tám mái, trong có tấm bia đá ghi tên những người Việt có công với mẫu quốc. Cái bia ấy, ông Trần Văn Lai cũng đã cho đập đi. Giờ chỉ còn có mỗi cái đình và một cây đa, trên thân cây đa lại có cây dừa là dấu tích cũ còn lại. Ở Hà Nội có khoảng chục cây chồng lên nhau như thế.

- Bác bảo, Hà Nội về cơ bản vẫn như cũ. Ta chỉ có bổ sung thêm...

- Đúng vậy. Ngoại trừ vùng ngoại ô và những khu mở thêm. Những khu phố ấy rất hiện đại. Còn bên trong, những phố cũ vẫn vậy. Về cơ bản, ta vẫn giữ nguyên. Ngay cả những phố cụ Trần Văn Lai đã đặt tên rồi ta cũng có thể điều chỉnh cho hợp lý. Phố Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám dài quá, có thể cắt ra được. Đã có phố Hoàng Hoa Thám rồi thì không nên có phố Yên Thế nữa, hay đã có phố Nguyễn Thái Học rồi thì còn thêm phố Yên Bái nữa làm gì.

Điều nhà văn Tô Hoài nói, không phải không có lý. Đặc biệt là việc xác định lại cho chính xác phố cổ để trùng tu, còn nhà cũ, phố cũ tồi tàn và xuống cấp quá thì để dân tôn tạo, sửa chữa, hay như việc chỉnh lại những dãy phố quá dài. Trong khi đó, phố Nam Cao lại chỉ có vài số nhà, sao gọi là phố được? Mấy khu phố Pháp vẫn để chờ từ thời Pháp kia, mấy năm gần đây cũng đã được đặt thành tên mới: Phố 334 thành phố Cảm Hội, phố 335 là Đống Mác, phố 325 là Thể Giao, phố 332 là Chùa Vua, phố 336 mang tên Lê Gia Định, phố 337 mang tên Đỗ Ngọc Du, phố 339 vẫn mang tên Yên Bái, phố 358 là Núi Trúc, phố 356 là Thanh Bảo. Đã đến lúc chúng ta cũng cần chỉnh lại cho hợp lý.

Ngắm Thủ Đô của chúng ta hôm nay, ta càng thấy nhớ Tô Hoài, một công dân Ưu tú của Thủ Đô. Đúng như lời ông nói, ta cần gìn giữ, tu tạo làm sao để có được một thành phố, một Thủ Đô văn hoá vừa đẹp, vừa hiện đại lại không làm mất đi những vẻ đẹp xưa cũ.