Một thoáng Trần Dần
Nhà thơ Trần Dần nguyên quán thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, cha Trần Dần là một viên chức kho bạc Nam Định. Ông học qua bậc Thành chung ở quê rồi lên Hà Nội học tiếp và đỗ Tú tài Triết. Năm 1946, Trần Dần cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương thành lập nhóm thơ tượng trưng Dạ đài với tuyên ngôn 16-11-1946 với những câu: "Chúng tôi, một đoàn vong gia thất thổ, đã đầu thai nhằm lúc sao mờ..." Đến ngày 19-12-1946, ông cùng nhóm Dạ đài ra số báo Dạ Đài 2, khi Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông trở về Nam Định tham gia công tác thông tin tuyên truyền ở huyện Vụ Bản rồi làm việc ở Sở Tuyên truyền Khu IV.
MỘT THOÁNG TRẦN DÂN
Đinh Quang Vinh
Nguyên Giám đốc Công ty Nhiệt điện Cao Ngạn (Thái Nguyên)
Hồi nhỏ tôi có người bạn, người bạn này có bà chị bán sách ở Hiệu sách nhân dân Thái Nguyên. Hiệu sách là một căn nhà lá bảy gian, ở vị trí đối diện với Bưu điện tỉnh bây giờ. Vì vậy, ngày nghỉ học tôi hay ra hiệu sách đọc “chùa”. Chị bán sách quý tôi lắm, cứ thấy tôi đến là cho mượn sách, rồi ngồi ngay trên ghế băng của hiệu sách mà đọc. Một sáng chủ nhật, tôi đang đọc sách thì thấy mấy người lớn thì thào: Trần Dần đấy, Trần Dần đấy. Tôi nhìn ra cửa, thấy một người đàn ông cao gầy, nghiêm nghị, mặc bộ com lê đã cũ nhưng tươm tất, màu be nhạt. Ông ngắm qua các kệ sách một lượt rồi đi ra. Vài lần gặp ông như vậy, nhưng không bao giờ thấy ông mua sách. Có vẻ với ông, ở cái hiệu sách tỉnh lẻ này chẳng có gì đáng đọc. Hồi đó còn nhỏ, tôi không biết ông là ai, chỉ thấy người lớn thì thào thì thấy lạ. Sau này mới biết ông là người Nam Định, năm 1948 tham gia kháng chiến, vốn là cán bộ văn nghệ quân đội, viết văn, làm thơ đều hay và độc đáo. Vào khoảng 1956, có tham gia nhiều hoạt động sôi nổi liên quan tới văn nghệ - chính trị, và có dính líu tới vụ án Nhân văn giai phẩm rất phức tạp. Bị bắt giam sau đó, ông tự vẫn không thành(về vụ án này, đến bây giờ vẫn còn nhiều ý kiến). Nhưng người ta bắt ông đi cải tạo lao động. Ban đầu ở nông trường Chí Linh, sau này lên lao động ở Thái Nguyên. Tôi gặp ông ở Thái Nguyên chính là vào thời điểm ấy. Cũng sau này mới biết chuyện tình của ông với bà Khuê, vợ ông, cũng rất bi kịch. Bà là người công giáo, có vài căn hộ cho thuê ở Hà Nội. Khi quân ta về tiếp quản Thủ đô, ông có mặt trong đoàn quân chiến thắng. Ông gặp bà khi ấy bà khoảng đôi mươi, xinh xắn và hiền lành. Ông yêu bà nhưng tổ chức không đồng ý, kiểm điểm ông, nói chung là trắc trở lắm, nhưng ông vẫn xách ba lô đến ở với bà ở phố Sinh Từ. Tình yêu của người nghệ sỹ giàu cá tính, mạnh hơn mọi thứ cấm đoán. Năm 1997 ông mất ở Hà Nội. Vào thời kỳ Đổi mới, ông và một số người bị kết án trong vụ NVGP đã được chiêu tuyết, một số tác phẩm của ông được xuất bản trở lại...
Bây giờ đọc lại những câu thơ đầy ẩn dụ chính trị, đã một thời làm ông khổ sở: Những ngày ấy bao nhiêu thương xót/Tôi bước đi/không thấy phố/không thấy nhà/Chỉ thấy mưa sa/ trên màu cờ đỏ...chợt thấy thương xót cho ông và những người bạn ông như Hoàng Cầm, Văn Cao, Hữu Loan, Lê Đạt và nhiều người khác...dù có thể đúng, có thể chưa đúng, nhưng đã dám nói thật và phải trả giá quá đắt cho sự dũng cảm của mình.
THÔNG TIN THÊM VỀ NHÀ THƠ TRẦN DẦN
Nhà thơ Trần Dần nguyên quán thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, cha Trần Dần là một viên chức kho bạc Nam Định. Ông học qua bậc Thành chung ở quê rồi lên Hà Nội học tiếp và đỗ Tú tài Triết.
Năm 1946, Trần Dần cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương thành lập nhóm thơ tượng trưng Dạ đài với tuyên ngôn 16-11-1946 với những câu: "Chúng tôi, một đoàn vong gia thất thổ, đã đầu thai nhằm lúc sao mờ..." Đến ngày 19-12-1946, ông cùng nhóm Dạ đài ra số báo Dạ Đài 2, khi Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông trở về Nam Định tham gia công tác thông tin tuyên truyền ở huyện Vụ Bản rồi làm việc ở Sở Tuyên truyền Khu IV.
Năm 1948, ông tham gia Vệ quốc quân, ở Ban Chính trị Trung đoàn 148 Sơn La (nay thuộc Sư đoàn 316), làm công tác tuyên truyền cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Địch, sau đó làm báo ở mặt trận Tây Bắc và phụ trách văn công Trung đoàn 148 Sơn La. Trần Dần cùng Trần Thư, Hoài Niệm tham gia sáng lập nhóm văn nghệ quân đội đầu tiên - Nhóm Sông Đà. Thời gian này ông bắt đầu làm thơ bậc thang và vẽ tranh lập thể, bị cho là khó hiểu. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc ấy có tên là Đảng Cộng sản Đông Dương) từ năm 1949.
Năm 1954, cùng với Đỗ Nhuận, Tô Ngọc Vân, Trần Dần tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và viết truyện dài Người người lớp lớp. Chiến dịch kết thúc, ông được cử sang Trung Quốc viết thuyết minh phim Chiến thắng Điện Biên Phủ. Tuy nhiên do bất đồng với người cán bộ chính trị đi cùng nên ông "nhường" cho người này viết thuyết minh. Tại thời điểm này, ở Trung Quốc, Hồ Phong, một nhà phê bình văn học và là đảng viên lâu năm, gửi một lá thư dài cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Trung Quốc vào tháng Bảy 1954 chỉ trích các lãnh đạo phụ trách lĩnh vực văn học nghệ thuật đã ép buộc giới văn nghệ sĩ phải theo xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa, không để cho họ tự do sáng tạo và có thái độ quan liêu trong công tác quản lý văn học nghệ thuật.
Trần Dần và vụ Nhân văn Giai phẩm:
Năm 1955, Trần Dần viết đơn đề nghị được giải ngũ, ra khỏi Đảng và kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê (gia đình bà Khuê có người di cư vào Nam, nên Đảng không cho phép đảng viên kết hôn vì lý lịch). Theo báo Nhân dân, việc Trần Dần đòi ra Đảng đã làm cho một số người đi theo. Ông tham gia Phong trào Nhân văn-Giai phẩm, Trần Dần lên tiếng đòi tự do, đòi xuất bản các tác phẩm mang tính cách tân của mình, mặc dù đã bị Chính quyền lúc bấy giờ nhiều lần cảnh cáo nhưng ông vẫn giữ vững sáng tác, ông liên tiếp cho ra đời các tác phẩm phê phán như "Lão rồng" và chuyện "Anh Cò Lấm" phê phán cải cách ruộng đất để rồi sau đó bị bắt giam. Cũng theo báo Nhân dân, trong tù ông kéo da cổ ra, lấy một lưỡi dao cạo râu cứa ngoài da, rồi "lu loa lên dọa tự tử". Ông phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi cho đến năm 1960.
Vài mốc chính của cuộc đời ông trong thời gian này có thể tóm tắt như sau:
Tháng 03/1955: Ông tham gia phê binh tập thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Trần Dần nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ.
Tháng 04/1955: Ông cùng Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Tử Phác đệ trình Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá với các đề nghị yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội. Ông cũng viết đơn xin giải ngũ và đơn xin ra khỏi Đảng, và quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê bất chấp sự phản đối của các cấp lãnh đạo.
Từ ngày 13/6 đến 14/9 cùng năm: Ông bị giam theo quân kỷ để kiểm thảo cùng với Tử Phác ở đơn vị. Trong thời gian này bà Bùi Thị Ngọc Khuê bắt đầu ốm nghén người con đầu lòng của hai người, chị Trần Thị Băng Kha. Nhà văn Hoàng Cầm trong bài viết về Trần Dần trên báo Nhân Văn số 1 có vài dòng nói về giai đoạn này: "Người yêu anh bỗng thấy anh không về nhà nữa. Nhưng trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như một con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em, không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán guốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi:
"Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?"
Tôi giải thích: "Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị."
Chị oà lên khóc:
"Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?"
Tôi lại khuyên nhủ:
"Có chứ! Ai cấm đâu!"
Chị bỗng khóc to hơn:
"Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi trốn rồi!"
Rồi chị gào lên:
"Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ."
Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:
"Anh ấy bận công tác thật đấy mà!"
Chị vẫn một mực:
"Anh ấy nói dối! Cả anh nữa cũng nói dối. Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh…"
Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt nhau đến canh ở đấy, giải thích an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan."
Từ 2/11 đến giữa tháng 2/1956, được hân công đi tham quan cải cách ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh. Trong thời gian này ở Hà Nội Hoàng Cầm cho đăng bài thơ "Nhất định thắng" trong Giai Phẩm Mùa Xuân. Tờ tạp chí bị tịch thu. Nội dung bài có những trăn trở của những người di cư vào Nam năm 1954 vì vậy mà Trần Dần bị kết tội chống phá cách mạng.
Tháng 2/1956: Trần Dần trở về Hà Nội. Hội Văn Nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ "Nhất định thắng" với 150 văn nghệ sĩ tham dự. Ông bị kết án là đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp và đi ngược lại đường lối của Đảng và bị giam 3 tháng tại nhà tù Hoả Lò, Hà Nội. Ông được thả vì việc bắt giữ ông không có sự chuẩn y của ban lãnh đạo tối cao của Đảng Lao động Việt Nam.
Ngày mùng 7 tháng 3/1956: báo Văn Nghệ số 110 có đăng bài Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần do Hoài Thanh viết.
- Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ định tự tử trong tù.
- Trần Thị Băng Kha, con gái đầu lòng của Trần Dần ra đời.
Tháng 9/1956: báo Nhân Văn ra đời, do Phan Khôi làm chủ nhiệm, Trần Duy làm thư ký toà soạn, Minh Đức xuất bản, ban biên tập gồm Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm. Trong số 1 có đăng bài Con người Trần Dần - Tiến đến việc xét lại một vụ án văn học: Trần Dần của Hoàng Cầm. Số báo Nhân văn xuất bản ngày 30/9/1956 có vẽ biếm họa chỉ ra mối liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần[.
Ngày 15 tháng 12/1956: Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Vỏn vẹn báo in được 5 số.
Cuối tháng 2/1957: Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội với gần 500 đại biểu. Tổng bí thư Trường Chinh nói chuyện, kêu gọi đấu tranh đập nát luận điệu phản động Nhân Văn-Giai Phẩm.
Tháng 3-4/1958: Ông tham dự lớp học "đấu tranh tư tưởng" tại Thái Hà Ấp với 304 cán bộ văn hoá văn nghệ tham dự.
Đầu tháng 6/1958: Hội nghị ban chấp hành Hội Liên Hiệp VHNTVN họp tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn-Giai Phẩm. Hơn 800 văn nghệ sĩ hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh.
Tháng 7 cùng năm: Cùng với các nghệ sĩ tham gia Nhân Văn-Giai Phẩm khác, ông nhận kết quả kỷ luật. Trần Dần bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn và đình chỉ xuất bản trong thời hạn 3 năm.
Từ 22/8 đến 2/1959, ông đi lao động cải tạo tại nông trường Chí Linh cùng với Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác.
Tháng 11/1959: Ông được phân công dịch tại ga-ra Hội Nhà Văn cùng với Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực.
Năm 1960: Có hai lần đi cải tạo lao động tại khu gang thép Thái Nguyên. Đến tháng 8 thì ốm nặng về Hà Nội.Từ đó sống âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách và tô ảnh màu, đứng ngoài mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống.
... Năm 1988: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm,... được mời tham gia sinh hoạt văn học trở lại. Tháng 5, Trần Dần vào Huế gặp gỡ đồng nghiệp và bạn đọc.
Năm 1961 ông trở về Hà Nội và từ đó đến năm 1986, kiếm sống bằng nghề dịch sách, tô màu ảnh, vẽ tranh, không tham gia đời sống văn học chính thống. Trong hồi ức của các con ông, Trần Dần ít khi buồn, không có một phàn nàn và không bao giờ kể chuyện đời mình.
Ông vẫn thầm lặng sáng tác, từ năm 1954 đến 1989 vẫn đều đặn viết nhật ký, những số đầu tiên có tựa là Ghi vặt, từ năm 1973 thành Sổ thơ và từ năm 1979 thành Sổ bụi. Nhận xét về giai đoạn này, ông có nói: Mình ngồi ba chục năm quen rồi. Ngồi mà vẫn đi, vẫn ngao du. Mình có cuốn sổ "bụi", sổ "ngao du". Mình đi chơi lang thang trong cuốn sổ này. Đây là sổ để ghi tất cả những gì mới nghĩ ra. Có khi ngoài cả ý thức. Đó là cách đi của mình.
Ông vẫn kiên trì công cuộc cách tân thơ của mình. Ở Sổ bụi 1988 khi nói về Thơ mini ông có viết: tôi thích viết cái chưa biết, mặc các ông viết cái đã biết. 90 có hoàn thành không? có thành công không để mà đốt đi? Tôi đã đốt tôi đi không phải chỉ đôi lần…cái chưa biết- cái khó - thậm chí cái bất khả thu hút và đắm đuối tôi.[7] Sổ bụi cuối cùng viết năm 1989, trước khi những năm cuối cuộc đời bệnh tật đã cướp đi của ông trí nhỡ và sự minh mẫn. (Di chứng của những lần xuất huyết não, lần đầu tiên ông bị là vào năm 1983)
Đặc biệt, Trần Dần không bao giờ mất lòng tin đến một ngày tác phẩm của mình được xuất bản trở lại. Sau khi ông mất, trong di cảo của ông, các con ông đã tìm thấy một tập bản thảo có ghi "Trần Dần tự xuất bản", hay tập thơ "Bao giờ em đi lấy chồng" mà ông đã tự trình bày và minh họa sẵn cách đấy 35 năm.
Đến thời kỳ Đổi mới, bước vào giai đoạn tác giả có thể bỏ tiền tự in, tự phát hành với sự cấp giấy phép của Nhà xuất bản, vài tác phẩm của ông được xuất bản trở lại như Trường ca "Bài thơ Việt Bắc" năm 1990 (cho dù chương 12 của bản Trường ca là toàn bộ bài thơ Nhất định thắng phải bỏ) và tập thơ tiểu thuyết Cổng tình năm 1994, tác phẩm sau này đã đoạt giải thưởng của Hội nhà văn[8]. Ông mất tại Hà Nội năm 1997.