Truyện Kiều - Nguyễn Du
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thể hiện tính hiện thực và tinh thần nhân đạo sâu sắc. Truyện Kiều cũng là đỉnh cao thơ ca cổ điển của dân tộc. Vì vậy, Truyện Kiều luôn được nhân dân ta yêu mến…Tacphammoi.net xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
PHẦN THỨ NHẤT
GẶP GỠ VÀ ĐÍNH ƯỚC
(Từ câu 1 đến câu 242)
Gia thế và tài sắc chị em Thúy Kiều
Chị em Thúy Kiều đi chơi xuân viếng mộ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng
1. Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ Mệnh, khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh.
Rằng: Năm Gia Tĩnh triều Minh,
10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
15. Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc, lại là phần hơn.
25. Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
30. Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên "Bạc mệnh", lại càng não nhân.
35. Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Ngày xuân con én đưa thoi,
40. Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh rợn chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là Đạp Thanh.
45. Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
50. Thoi vàng - vó rắc, tro - tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
55. Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng: “Sao trong tiết Thanh Minh,
60. Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?”
Vương Quan mới dẫn gần xa:
”Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh,
65. Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương.
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
70. Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ!
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên bấy là mình với ta.
75. Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút đỉnh gọi là duyên sau.
Sắm sanh nếp tử xe châu,
Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn, ác tà,
80. Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!”
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa:
”Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
85. Phũ phàng chi bấy Hoá công,
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay thác xuống làm ma không chồng!
Nào người phượng chạ loan chung,
90. Nào người tiếc lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái, người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho”.
95. Lầm rầm khấn vái nhỏ to,
Sụp ngồi và gật trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
100. Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
105. Vân rằng: “Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!”
Rằng: “Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110. Thấy người nằm đó, biết sau thế nào?”
Quan rằng: “Chị nói hay sao,
Một điều là một vận vào khó nghe!
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngả, dặm về còn xa.”
115. Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ!”
Một lời nói chửa kịp thưa,
120. Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay,
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
125. Mặt nhìn ai nấy đều kinh.
Nàng rằng: “Này thực tinh thành chẳng xa.
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển, mới là chị em”.
Đã lòng hiển hiện cho xem,
Tạ lòng, nàng lại nối thêm vài lời.
130. Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây, lại vạch một bài cổ thi.
Dùng dằng nửa ở, nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
135. Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
140. Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao.
145. Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim, tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu bậc tài danh,
150. Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan, trước vẫn là đồng thân.
155. Vẫn nghe thơm nức hương lân,
Một lần Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
160. Gặp tuần đố lá, thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
165. Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê.
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
170. Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi, chiêng đà thu không.
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
175. Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng, cành xuân la đà.
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:
”Người mà đến thế thì thôi,
180. Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?”
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
185. Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.
Sương in mặt, tuyết pha thân,
190. Sen vàng lãng đãng như gần, như xa.
Chào mừng đón hỏi dò la:
”Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?”
Thưa rằng: “Thanh khí xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?
195. Hàn gia ở mé tây thiên,
Dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu.
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
Vâng trình hội chủ xem tường,
200. Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội, một thuyền đâu xa!
Này mười bài mới, mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.”
205. Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ nức nở khen thầm:
"Giá đành tú khẩu, cẩm tâm khác thường!
Ví đem vào tập đoạn trường
210. Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai.”
Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.
215. Trông theo nào thấy đâu nào
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây?
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!
Hoa trôi, bèo dạt, đã đành,
220. Biết duyên mình, biết phận mình, thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đòi cơn, lại sụt sùi đòi cơn.
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
Nhà huyên chợt tỉnh, hỏi: "Cơn cớ gì?
225. Cớ sao trằn trọc canh khuya?
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?”
Thưa rằng: “Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
230. Nhắp đi, thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
Đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Thân con thôi có ra gì mai sau!”
235. Dạy rằng: “Mộng triệu cứ đâu,
Bỗng không mua não, chuốc sầu nghĩ nao!”
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ, đã dào mạch Tương.
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
240. Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.
Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng, riêng chạnh tấc riêng một mình.
(Còn nữa)
N.D
_________¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬____________
2. Tài: tài năng, tài hoa của con người. Mênh: số mệnh, số phận, tức là cuộc đời con người. Câu này ý nói người có tài thường bạc mệnh.
3. Bể dâu: trong văn chương cổ của chúng ta thường dùng thành ngữ "bãi bể nương dâu", hoặc nói tắt là "bể dâu" để chỉ những sự biến đổi thăng trầm của cuộc đời.
5. Bỉ sắc tư phong: điều kia kém thì điều này hơn. Ý muốn nói đã được Tài hơn người thì Mệnh phải kém người.
6. Tạo hoá ghen với người đàn bà đẹp.
7. Cảo thơm hay Kiểu thơm: do chữ Hán phương cảo, nghĩa là pho sách thơm, pho sách hay.
8. Phong tình: chuyện tình yêu trai gái.
Sử xanh: do chữ thanh sử . Ở Trung Quốc thời xưa, khi chưa có giấy, người ta chép sử bằng cách khắc chữ vào những thanh trúc, thanh tre cật màu xanh, nên gọi là thanh sử.
9. Gia Tĩnh: Niên hiệu vua Thế Tông, nhà Minh (1522-1566).
10. Hai kinh: tức Bắc Kinh và Nam Kinh (Trung Quốc). Cả hai câu này ý nói: thời đại này, rất thái bình thịnh trị.
11. Viên ngoại: một chức quan ngoại ngạch, giữ việc sổ sách tại các bộ, đặt ra từ thời Lục-triều. Về sau, cứ có tiền là có thể mua được chức này. Chữ "Viên ngoại" ở đây có nghĩa như chữ trưởng giả.
14. Chữ: tức tên chữ, tên tự. Theo tục xưa danh là tên chính, và tự là tên chữ, người nào mới sinh cũng có danh là tên chính, khoảng 20 tuổi đặt thêm tên chữ là tự.
15. Tố Nga: chỉ người con gái đẹp.
17. Thuý Kiều và Thuý Vân, mỗi người có một vẻ riêng như mai có "cốt cách" của mai, tuyết có "tinh thần" của tuyết.
20. Khuôn trăng: khuôn mặt. Nét ngài: Nét lông mày. Ngài: con ngài, tức con bướm tằm, ở đầu nó có hai cái râu, dài, thanh, cong cong hình bán nguyệt. Lông mày người con gái đẹp trông giống cái râu ngài.
21. Thốt: tiếng cổ có nghĩa là nói.
Hoa cười, ngọc thốt: cười tươi như hoa, nói đẹp như ngọc.
25. Thu thuỷ: nước mùa thu, Xuân sơn: núi mùa xuân. Câu noi này ví mắt Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xanh, đẹp như rặng núi mùa xuân.
27. Bài ca của Lý Diên Niên, đời Hán, ca ngợi sắc đẹp của một mĩ nhân có câu:
Nhất cố khuynh nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc.
Nghĩa là:
Quay lại nhìn một lần thì làm nghiêng thành người
Quay lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người.
Do đó, người sau thường dùng chữ nghiêng nước (khuynh quốc), nghiêng thành (khuynh thành) để chỉ sắc đẹp phi thường của người phụ nữ.
Hai chữ một hai trong câu này dịch mấy chữ nhất cố, tái cố ở trên.
28. Câu này có nghĩa là về "sắc" thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về "tài" thì may ra còn có người thứ hai nữa.
31. Cung, thương: hai âm đứng đầu ngũ âm trong cung bậc nhạc cổ của Trung Quốc: Cung, thương, giốc, truỷ, vũ.
Lầu bậc: làu thông cung bậc.
32. Hồ cầm: một loại đàn tỳ bà. Hồ cầm một trương: một cây đàn hồ cầm.
34. Bạc mệnh: tên bản đàn do Thuý Kiều sáng tác. "Bạc mệnh" nghĩa là số mệnh bạc bẽo, mỏng manh.
Não nhân: làm cho người ta nghe mà não lòng.
35. Hồng quần: cái quần màu hồng. Phụ nữ Trung Quốc xưa thường mặc quần màu hồng, hai chữ này được dùng để chỉ nữ giới.
36. Cặp kê: nghĩa là đến tuổi cài trâm (Kê nghĩa là cái trâm). Theo lễ cổ Trung Quốc, con gái 15 tuổi đến thì hứa gả chồng nên bắt đầu búi tóc, cài trâm.
38. Tường đông: Bức tường ở phía đông. Đây dùng chữ "tường đông" để chỉ chỗ có con gái đẹp ở.
39. Con én đưa thoi: nhân cảnh mùa xuân có chim én, chim én, ngầm ý nói thời gian thấm thoát qua nhanh.
40. Thiều quang: ánh sáng tươi đẹp, chỉ tiết mùa xuân. Mùa xuân có 90 ngày (ba tháng), mà đã ngoài 60, tức là đã bước sang tháng ba.
43. Thanh minh: theo âm licjk, một năm chia làm bốn mùa, mỗi mùa chia làm sáu tiết. Thanh minh là một tiết của mùa xuân nhằm vào đầu tháng ba.
44. Tảo mộ: quét mồ. Theo tục cổ, đến tiết Thanh minh con cháu đi viếng và sửa sang lại phần mộ của cha mẹ tổ tiên.
Đạp thanh: dẫm lên cỏ xanh, chỉ việc trai gái đi chơi xuân, dẫm lên cỏ xanh ngoài đồng, do đó mà gọi hội Thanh minh là hội Đạp thanh.
45. Yến anh: chim yến (én), chim anh (có khi đọc là oanh), hai loài chim về mùa xuân, thường hay ríu rít từng đàn. Đây ví với cảnh những đoàn người rộn ràng đi chơi xuân.
48. Ngựa đi như nước: ngựa xe qua lại như nước chảy, hết lớp này đến lớp khác.
Áo quần như nêm: ý nói người đông đúc, chen chúc.
49. Ngổn ngang gò đống kéo lên: những đoàn người ngổn ngang kéo nhau lên nơi gò đống.
50. Vàng - vó: một loại vàng giấy, dùng trong việc đưa ma hoặc lễ mộ.
53. Tiểu khê: ngòi nước nhỏ.
62. Ca nhi: người con hát chuyên làm con hát trong các lầu xanh.
64. Yến anh: chỉ khách làng chơi.
65. Hồng nhan: má hồng, chỉ người con gái đẹp.
66. Cành thiên hương: cành hoa thơm của trời, chỉ người con gái đẹp.
70. Trâm gãy bình rơi: ý nói người đẹp đã chết.
72. Dấu xe ngựa: dấu vết xe ngựa của những khách đến chơi bời khi trước.
74. Bấy: biết bao nhiêu.
77. Nếp tử, xe châu: quan tài bằng gỗ tử và xe đưa đám tang có rèm hạt châu. Ý nói người khách mua quan tài và thuê xe tang chông cất Đạm Tiên một cách chu đáo.
78. Bụi hồng: do chữ hồng trần, nghĩa là đám bụi đỏ. Đây muốn ám chỉ nấm mộ nằm bên đường, một nấm mồ lưu lại trong cõi trần gió bụi.
79. Thỏ bạc, ác vàng: người xưa cho rằng trong mặt trăng có con thỏ giã thuốc, trong mặt trời có con quạ vàng ba chân.
82. Châu: hạt ngọc châu, đây chỉ nước mắt.
85. Hoá công: thợ tạo hoá, tức là trời.
86. Phượng: Chim phượng trống. Loan: chim phượng mái. Trong văn cổ, loan phượng dùng để chỉ đôi lứa vợ chồng. Ở đây chỉ những khách làng chơi đi lại, chung chạ ái ân với Đạm Tiên, ngày trước.
90. Tiếc lục tham hồng: tiếc màu lục, tham màu hồng. Ý nói luyến tiếc, ham sắc đẹp của giai nhân.
94. Suối vàng: do chữ hoàng tuyền ở dưới đất có mạch suối, mà đất thuộc màu vàng, nên gọi là hoàng tuyền.
97. Áy: vàng úa.
100. Bốn câu ba vần: thể thơ tứ tuyệt xưa.
112. Vận vào: ý nói lời nào cũng như ám chỉ vào mình.
113. Âm khí: cái khí cõi âm, cõi chết. Ở đây chỉ không khí bãi tha ma.
116. Thể: thể xác (hữu hình). Phách: chỉ những cái gì vô hình chỉ dựa vào thể xác mà tồn tại.
118. Hiển linh: tỏ sự linh thiêng cho mọi người biết.
120. Trận gió cuốn cờ: trận gió mạnh, lốc.
126. Tinh thành: lòng thành thuần khiết, lòng chí thành.
128. U hiển: U là tối, chỉ cõi chết. Hiển là sáng rõ, chỉ cõi sống. Ý nói: chớ nề kẻ sống, người chết, kẻ cõi âm, người cõi dương.
136. Tay khấu: tay cầm cương ngựa. Ý nói buông lỏng dây cương cho ngựa đi thong thả.
Dặm băng: dặm đường đi.
137. Lưng túi gió trăng: chỉ phong cách tao nhã của Kim Trọng.
139. Câu: con ngựa non. Dòn: hàm ý chỉ, lanh lợi, xinh đẹp.
142. Tự tình: chuyện trò, bày tỏ tâm tình.
143. Hài văn: thứ giày thêu mà nho sĩ thời xưa thường dùng.
Dặm xanh: dặm cỏ xanh.
144. Cây quỳnh, cành giao: cây ngọc quỳnh và cây ngọc giao. Ý nói vẻ khôi ngô tuấn tú của Kim Trọng như làm cho cả một vùng cũng hoá đẹp lây.
146. Hai kiều: hai người con gái xinh đẹp, tức hai chị em Thuý Kiều.
148. Trâm anh: trâm là cái trâm để cài búi tóc. Anh là cái dải mũ, hai thứ dùng trang sức cho cái mũ của người sĩ tử, quan chức. nhà trâm anh: Chỉ những nhà thế tộc phong kiến, có người đỗ đạt, làm quan.
149. Phú hậu: giàu có.
150. Nết đất: theo lối nhà, theo dòng dõi trong nhà. Câu này ý nói Kim Trọng thuộc dòng dõi văn chương và có cái thông minh trời phú.
151. Phong tư: dáng điệu. Tài mạo: tài hoa và dung mạo.
152. Phong nhã: phong lưu nho nhã. Hào hoa: sang trọng phong cách có vẻ quí phái. Vào trong là ở trong nhà, ra ngoài là ra giao thiệp với đời.
154. Đồng thân: bạn cùng học.
155. Hương lân: làng xóm. Ý nói: vẫn nghe tiếng khen đồn đại ở vùng lân cận.
156. Đồng Tước: Đời Tam Quốc, Tào Tháo đào sông Chương Hà, bắt được đôi chim sẻ đồng, bèn cho xây ở gần đó một toà lâu đài, đặt tên là đài Đồng Tước (sẻ đồng), và định hễ đánh thắng Đông Ngô thì bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều (là vợ Tôn Sách và vợ Chu Du) đem về đấy để vui thú cảnh già. Khoá xuân ở đây là khoá kín tuổi xuân, tức cấm cung. Hai Kiều tức Đại Kiều và Tiểu Kiều. Tác giả mượn điển cũ để nói bóng rằng: nhà họ Vương có hai cô gái đẹp cấm cung.
157. Buồng thêu: buồng người con gái.
158. Chốc mòng: tiếng cổ, nghĩa là bấy lâu, bấy nay.
159. Giải cấu tương phùng: cuộc gặp gỡ tình cờ.
160. Đố lá: Hội đố lá, còn gọi là diệp hý, một tục chơi xuân có từ đời nhà Đường. Vào khoảng tháng ba, trai gái đi du xuân, bẻ một cành cây rồi đố nhau xem số lá chẵn hay lẻ để đoán việc may rủi. Đây là dịp để họ làm quen và tìm hiểu nhau.
161. Bóng hồng: bóng người con gái. Phụ nữ Trung Quốc thời xưa hay mặc quần đỏ nên gọi là bóng hồng.
162. Xuân lan, thu cúc: hai chị em Kiều, mỗi người có một vẻ đẹp riêng, ngưòi như lan mùa xuân, người như cúc mùa thu.
163. Quốc sắc: sắc đẹp nhất nước, chỉ Thuý Kiều.
166. Chỉn: tiếng cổ, chỉn khôn: chẳng xong, không xong.
173. Gương nga: tức mặt trăng. Theo truyền thuyết trong cung trăng có chị Hằng Nga, nên thường gọi trăng là "gương nga".
174. Vàng gieo ngấn nước: ánh trăng vàng dọi xuống ngấn nước.
175. Đông lân: xóm bên đông, nơi có con gái đẹp ở, cũng giống nghĩa chữ "tường đông".
Hải đường lả ngọn đông lân: cây hải đường ở xóm đông lả ngọn xuống.
177. Bóng nga: bóng trăng.
179. Người mà: chỉ Đạm Tiên.
181. Người đâu: chỉ Kim Trọng.
186. Triện: lan can.
188. Phong vận: nền nã, yểu điệu.
Thanh tân: thanh tú, tươi tắn.
189. Ý nói mặt và thân hình người tiểu kiều đó như có sương và tuyết in phủ lấy.
190. Sen vàng: chỉ gót chân người đẹp. Đông Hôn Hầu, đời Tề (Nam Bắc Triều), rất yêu quí nàng phi họ Phan, từng đúc hoa sen bằng vàng lát xuống nền nhà, để cho nàng đi lên rồi khen rằng: "Bộ bộ sinh liên hoa" (mỗi bước đi nở ra một hoa sen).
Lãng đãng: tiếng cổ, như nói lửng đửng, đi từ từ chậm chậm.
192. Đào nguyên: nguồn đào, nơi tiên ở. Đời Tấn một người đánh cá chèo thuyền ngược theo một dòng suối đi mãi tới một khu rừng trồng toàn đào, thấy nơi đó có một cảnh sống êm đẹp như nơi tiên ở. Người sau dùng chữ "nguồn đào" hay "động đào" để chỉ cảnh tiên.
193. Thanh khí: Kinh Dịch: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" (cùng một thứ tiếng thì ứng với nhau, cùng một loại khí thì tìm đến nhau).
195. Hàn gia: hèn là nghèo, gia là mọn, nhà xoàng, lời nói khiêm tốn.
Tây thiên: phía trời đàng tây, hoặc cánh đồng phía tây.
197. Hạ cố: trông xuống, chiếu cố tới.
198. Hạ tứ: ban xuống, ban cho. Cả câu: hai bài thơ của Kiều lời đẹp ý hay, thật quý báu như là ném cho những hạt châu, gieo cho những thỏi vàng vậy.
200. Đoạn trường: đứt ruột, chỉ sự đau đớn bi thương. Sổ đoạn trường: sổ ghi tên những người phụ nữ bạc mệnh.
201. Quả kiếp nhân duyên: quả là kết quả. Nhân là nguyên nhân, ý nói duyên (tốt) hay kiếp (xấu) cũng là có nhân với quả cả.
208. Tú khẩu, cẩm tâm: miệng thêu, lòng gấm. Ý nói thơ Kiều làm tuyệt hay.
222. Đòi cơn: nhiều cơn.
223. Trướng loan: màn có thêu chim loan.
224. Nhà huyên: tức mẹ. Huyên là cây hoa hiên, theo thuyết cổ, có tính chất làm quên sự lo phiền.
226. Hoa lê: ví với người đẹp, giọt mưa ví với giọt nước mắt.
228. Dưỡng sinh: nuôi dưỡng và sinh ra, chỉ công ơn cha mẹ.
235. Mộng triệu: điều thấy trong mộng.
238. MạchTương: dòng nước mắt. Tương là tên một con sông ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) chảy vào hồ Động Đình. Ngày xưa, vua Thuấn đi tuần thú, chết ở phương xa, hai người vợ vua là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, đến ngồi trên bờ sông Tương, khóc rất thảm thiết, nước mắt vẩy ra những khóm trúc xung quanh, làm cho trúc đó hoá thành những điểm lốm đốm. Về sau, các nhà văn thường dùng chữ mạch Tương, giọt Tương để chỉ nước mắt phụ nữ.
(Theo bản Truyện Kiều – NXB Giáo Dục 1984)