Nhà thơ

Cả hai vợ chồng anh Tuyến đều rất yêu văn học. Điều đó khiến tôi cảm tình, nể trọng vợ chồng anh. Đồ vật nổi bật nhất trong nhà anh chị không phải là tủ lạnh, ti vi, không phải lấmy dệt len hay máy khâu, mà là một giá sách lớn. Tôi thường qua lại nhà họ chơi luôn, được coi gần như người thân trong gia đình… Phải nói là ít năm gần đay, anh chị Tuyến mới yêu văn học. Trước kia, anh chị ấy yêu âm nhạc hơn, yêu đến nỗi có hai đứa con, một trai và một gái, họ đã đặt tên một đứa là Dương Cầm, một đứa là Vỹ Cầm.

 

Trong hai đứa con, anh chị Tuyến dồn sự chăm lo cho thằng Dương. Chẳng phải vì nó là con lớn hơn mà bởi nó là con giai, nó lại tỏ ra thông minh, sáng dạ, hoạt bát hơn cái Vỹ em nó nhiều. Anh chị Tuyến có cả một kế hoạch bồi dưỡng xây đắp kiến thức cho nó rất công phu, cụ thể là việc sáng tạo cho thằng bé thói quen đọc sach. Anh chị Tuyến chọn lựa các loại sách anh chị thấy bổ ích cho việc phát triển kiến thức văn học của thằng Dương, bắt nó đọc. Đọc xong, đích thân anh Tuyến lại hỏi cặn kẽ, xem đúng thằng bé có đọc cẩn thận không. Thằng bé đọc rất chăm, rất cẩn thận, đọc đâu nhớ đấy, thuộc vanh vách cả những điều ngỡ tâm trí nó chưa thể lĩnh hội nổi. Có lần nó ví tôi với nhân vạt Manilốp trong tác phẩm Những linh hồn chết của nhà văn Gôgôn. Lần khác, khi tôi vừa đi dự đám cưới một người bạn về, nó nhận xét rằng tôi có một bộ mặt “mày râu nhẵn nhụi” một cách khả nghi giống nhân vật Mã Giám Sinh trong Truyền Kiều mà nhà phê bình văn học Trần Thanh Mại đã phân tích. Tôi phải trợn mắt ngạc nhiên vì đó mới chỉ là một thằng bé lên tám, người bé loắt choắt, mặt cũng bé, chỉ có đôi mắt sáng, cái trán dô, rộng và quả quyết, chứng tỏ một đứa trẻ thông minh, đĩnh ngộ…

Tôi còn nhớ rất rõ buổi tối ấy, anh Tuyến nhắn tôi sang chơi. Thoạt bước vào nhà, tôi đã nhận ngay ra một không khí sang trọng khác thường. Thằng Dương đang ngồi ngay ngắn cạnh bàn. Chị Tuyến ngồi cạnh nó, ánh mắt long lanh nỗi hồi hộp phấp phỏng. Con bé Vỹ Cầm len lén ngồi ở góc giường, tay ôm con búp bê, không dám ho he lấy một tiếng. Anh Tuyến đứng ở giữa nhà đón tôi. Anh mời tôi ngồi, pha một ấm trà, húng hắng ho rồi mới ghé sát vào mặt tôi, thì thầm:

- Hôm nay, mời chú sang đây nghe cháu Dương đọc… một số bài thơ cháu vừa sáng tác…

- Thơ? Cháu Dương làm?

- Phải. Cháu bắt đầu làm thơ một tháng nay. Đây là những chùm thơ đầu tay của cháu, chú nghe thử - Rồi quay sang thằng Dương - Con cứ đọc, bắt đầu từ bài “Ông Trăng” ấy…

Thằng bé liếc nhìn tôi. Tôi gật đàu khuyến khích nó: “Đọc đi cháu!” Thằng bé liền đứng thẳng người, ưỡn ngực hít một hơi dài như lấy đà, rồi cất giọng dõng dạc: - Bài thứ nhất: “Bầu trời và ông trăng”: Trời như chiếc lồng xanh/ Ông trăng như quả chin/ Tỏa mùi hương ngọt lịm/ Ngàn sao nhấp nháy cười/ Trăng tròn như giếng khơi/ Suốt đêm rằm thao thức… Hình như bài thơ đại loại như vậy, tôi không nhớ hết, chỉ biết ý tứ khá rành rọt, câu chữ có hình ảnh, vần điệu đâu ra đấy! Sau bài “Bầu trời và ông trăng” là bài “Hoa phượng bên trời” phải đến mười mấy bài thơ liền, bài nào nghe cũng được. Tôi không am hiểu nhiều về thơ, nhưng phải nhận là thằng bé khiến tôi sửng sốt và thán phục thực sự.

Từ hôm đó, tuần nào anh Tuyến cũng gọi tôi sang chơi nghe con anh đọc thơ. Thằng bé viết rất đều, rất khỏe. Mõi tuần nó viết mười, mười lăm bài, chép kín hết quyển vở nọ đến quyển vở kia. Tài thơ của nó phát lộ một cách vô cùng dồi dào. Gì nó cũng đặt thành vần điệu, hình ảnh được. Dần nghe thơ của con anh Tuyến! Khách khứa đến nhà anh đề được chứng kiến một tiết mục không thể thiếu là thằng Dương đọc những bài thơ nó vừa sáng tác. Có khi nó ứng khẩu htành thơ ngay tại chỗ, theo những đề tài mà bố mẹ nó hoặc khách khứa yêu càu. Ai cũng phải trầm trồ khen ngợi. Tài năng văn học của đứa bé tám tuổi được lan truyền rộng rãi. Các cô giáo thầy giáo ở trường tự hào vì nó. Nó thường xuyên lên đọc thơ ở trường, trước mặt các khách tham quan, chép thơ vào sổ của khách  với chữ ký và lời đề tặng như một thi sĩ thực thụ. Rồi có vài tờ báo đã đăng thơ của Dương, nó đã được giải thưởng trong một cuộc thi sáng tác của thiếu nhi. Báo đã đăng ảnh Dương đang ngồi bên bàn viết. Hiển nhiên tôi cũng được cá vinh dự là người hàng xóm của Dương, được tận mắt chứng kiến những bước đi đầu tiên của một nhà thơ nhỏ tuổi.

Công việc sáng tác vất vả, hoặc cũng có thể là sự thành công đã làm cho Dương biến đổi nhiều. Thoạt nhìn đã nhận thấy chú không giống những đứa trẻ khác. Chú đi đứng chậm rãi, vẻ mặt luôn trầm lặng, căng thẳng, đôi mắt đăm chiêu đến mức như đờ đẫn, có lúc trông dại hẳn đi. Dương không chơi với lũ trẻ cùng tuổi trong khu tập thể. Không bao giờ thấy chú chạy nhảy la hét, chơi các trò chơi “trẻ con” như “ú tim”, “bắn pằng” hoặc đá bóng, đá khăng… Dương thuyền xuyên ở trong nhà. Đi qua chỉ thấy chú ngồi bên bàn, chính bố mẹ Dương bắt chú phải cấm cung như vậy. Anh chị Tuyến ra lệnh cho cái Vỹ tuyệt đối không được làm ồn, không được cười to nói to khi anh nó đang ngồi viết. Rất chăm bẵm, cưng chiều thàng con tài năng, anh chị Tuyến cũng áp dụng một kỷ luật học tập và làm việc rất gắt gao với Dương, nhằm gìn giữ và phát triển năng lực văn học quý báu của nó. Tôi cũng ít khi sang nhà họ như trước, sợ mình quấy rầy sự tĩnh lặng cần thiết cho việc suy ngẫm sáng tác của Dương.

Bằng đi một thời gian, một hôm, tôi gặp anh Tuyến ở sân khu tập thể. Anh gọi tôi lại, níu lấy tôi, tỏ ý có chuyện muốn nói. Đắn đo hồi lâu anh mới thổ lộ, giọng rất lo lắng:

- Cậu ạ, thằng Dương nhà mình độ này làm sao ấy. Nó “sáng tác” ít hẳn đi. Lâu lắm không làm được bài thơ nào…

- Hay nó ốm? - Tôi hỏi.

- Không, nó vẫn khỏe như thường. Đáng lo nhất là nó không mải mê làm thơ như trước. Không hiểu vì sao?

Tôi an ủi anh:

- Anh đừng nên lo lắng, biết đâu thằng Dương nhà anh chẳng đang thai nghén cho những sáng tác mới?...

- Không - Anh Tuyến ngắt lời tôi - Rõ ra là nó lười. Tôi đã lơi lỏng, thiếu nghiêm khắc với nó…

Và từ hôm ấy anh Tuyến tỏ ra nghiêm khắc với Dương hơn. Anh sử dụng cả roi vọt. Có lần đi ngang qua cửa nhà anh tôi thấy anh cầm cặp dắt xe đạp ra sân, khóa chặt cửa rồi còn quay lại quát:

- Ngồi đấy! Cấm không được đi đâu! Tao nói cho mày biết: ngày hôm nay mà mày không làm xong hai bài thơ về mùa xuân, một bài về “em yêu trường em” thì chết với tao!

Anh Tuyến đi rồi, tò mò, tôi lén đến gần cửa nhìn vào thấy thằng Dương đang ngồi bên bàn, mặt rầu rĩ, miệng mếu máo, hai tay ôm đầu. Trông cái vóc người nhỏ bé của nó cúi xuống trang vở như một kẻ chịu tội, tôi không khỏi thầm thương hại… Ngoài sân, cái Vỹ Cầm đang tung tăng chơi rải gianh với lũ trẻ, toét miệng cười khoe với tôi:

- Anh cháu bị nhốt trong nhà, làm thơ…

Nhưng đúng làn nguồn thơ của Dương đã vơi cạn. Những biện pháp nghiêm khắc đến nghiệt ngã của anh Tuyến không mấy kết quả hoặc nói đúng hơn, lại là một kết quả khó hiểu, bất ngờ.

Đó là một buổi thứ bảy. Như thường lệ trước kia, đây là buổi anh Tuyến giới thiệu những sáng tác mới trong tuần của con mình. Tuy không được mời, nhưng nôn nóng quan tâm tới tình hình phát triển tài năng của Dương, nên tôi cũng sang. Tôi bước vào đúng lúc trong nhà vừa xảy ra một sự gì rất trầm trọng. Chị Tuyến nét mặt như hoảng hốt. Anh Tuyến hầm hầm đứng giữa nhà, hai tay chống nạnh, giận dữ quát:

- Có đúng thế không? Có đúng thế không?

Dương đứng trước mặt bố, mặt tỉnh bơ, không trả lời. Anh Tuyến lại quay sang con bé Vỹ Cầm:

- Có đúng thế không? Có đúng anh Dương dậy mày những câu thơ như thế không?

- Đúng ạ. Anh ấy bảo đó là bài thơ tao mới làm…

- Đọc lại tao nghe lần nữa! - Anh Tuyến lại ra lệnh. Cái Vỹ thỏ thẻ đọc:

- “Ông Thà” (ông Thà là tên ông hàng xóm của tôi và vợ chồng anh Tuyến).

Cái Vỹ đọc tiếp: - “Ông Thà”: Ông thà ông Thiếc/ Ăn cua ăn diếc/ Vợ mắng vợ nhiếc/ Vợ đá vào đít/ Ông bắn ra xa/ Ông giống con gà/ Vừa gáy vừa chạy…

- Thôi! - anh Tuyến quát, mặt anh tái xanh vì tức - Dương, có phải mày đã nghĩ ra những câu đó?

Dương điềm nhiên gật đầu, mặt vẫn tỉnh bơ.

- Nhưng mà tại sao… tại sao mày lại… - giọng anh Tuyến lắp bắp - … mày… những lời lăng nhăng… mất dạy!

Thấy anh quá xúc động, tôi tiến đến định đỡ anh, nhưng anh gạt phát tôi ram tiếp tục xấn đến trước thằng bé:

- Tao bảo mày ở nhà… suy nghĩ… viét tử tế, rồi chép ra vở, sao mày lại…

- Thì con có chép đấy ạ… ở trong này này…

Thằng Dương trỏ quyển vở trên bàn. Anh Tuyến cầm lên độc. Càng đọc, mắt anh càng trợn ngược mặt anh sắt lại. Tôi cũng ghé vào đọc: bằng một thứ chữ nguệch ngoạc nguều ngoào trên các trang vở: thằng Dương viết một loạt kiểu bài như bài… “Ông Thà ông Thiếc”, rặt những câu lăng nhăng xí xố, bạ đâu nói đấy, chỉ cốt cho có vần, vừa vô nghĩa lý vừa ngỗ ngược, không khác gì những bài trẻ hát nhăng ngoài đường: “Ông già Khốtabít. Mua báo không biết xem. Mua kem không biết mút”… Sau cùng, ở trang cuối vở, là bài “Chú Lưu”. Chú Lưu tức là tôi. Anh Tuyến quát:

- Nó viết gì về Chú Lưu? Chú đọc đi!

Như cái máy tuân lệnh anh, tôi đọc to: Chú Lưu mắt lươn/ Mồm như cái túi/ Lưng thì lom khom/ Gặp ai cũng nhòm/ Phen này chết đói/ Vợ trói vào cây/ Ỉa rây ra quần…

Đến đây thì giọng tôi ấp úng: tôi nhận thấy cái Vỹ, thằng Dương đang cố nén để khỏi phá lên cười. Anh Tuyến đập tay xuống bàn đánh rầm một cái, điên cuồng xông tới, vung tay định tát thằng Dương. Tôi níu tay anh lại, anh vẫn chồm lên, tôi phải ấn anh ngồi xuống ghế tựa. Chị Tuyến nước mắt lưng tròng. Thừa lúc ấy, thằng Dương cái Vỹ lẩn luôn ra sân. Anh Tuyến rên rỉ:

- Thế đấy… Thằng mất dạy! Bây giờ nó đổ đốn như thế đấy! Tôi đã tốn bao công phu vì nó…

Anh như nức nở. Nỗi đau khổ của người bố thật đáng ái ngại. Để cho anh dịu lại tôi rủ anh ra quán ngồi uống nước, lựa lời khuyên giải mong anh khuây khỏa phần nào. Anh vẫn nghẹn ngào dấm dứt.

- Trước kia, nó thông minh giỏi giang là thế… mà bây giờ… Tại sao? Tôi không thể hiểu nổi?

Đúng là không thể hiểu nổi! Những vần thơ êm ái, sáng sủa của thằng Dương trước kia, so với những lời lăng nhăng nhảm nhí vừa rồi thật làmột trời một vực. Nhưng tại sao một tài năng đầy triển vọng lại sa sút bất ngờ đến như thế. Tại sao? Tôi cố an ủi anh Tuyến nói với anh rằng có thể sự “đổ đốn” của thằng Dương chỉ là nhất thời, rồi sẽ qua đi, con anh sẽ lại tiếp tục tiến bước trên con đường văn học… Những lời an ủ của tôi rốt cuộc chỉ là những lời an ủi. Từ sau buổi tối đáng buồn đó, bất chấp những hăm dọa, đánh mắng dụ dỗ, van vỉ của vợ chồng anh Tuyến, thằng Dương vẫn khư khư chứng nào tật nấy, nó vẫn không làm tiếp một bài thơ nào nữa. Có những lúc, bị ép buộc ghê gớm, thần mặt ra, nhưng rồi lại đứng dậy với tờ giấy trắng… Ra nó hỏng thật rồi! Tài năng của Dương đã chết yểu, đôi cánh thi ca cảu nó đã sớm cụt lủn. Nó đã tịt hẳn! Bài thơ nó viết về tôi - bài “ỉa ra quần!” - đã là tiếng hát cuối cùng của một con chim thiên nga…

Nhà anh chị Tuyến những ngày tiếp đó như nhà có tang. Tôi ái ngại không dám sang chơi. Cho đến một ngày, khoảng một tháng sau, thình lình, anh Tuyến sang nhà tôi. Vẫn giọng thầm thì, anh nói với tôi một câu thật bất ngờ:

- Trưa nay, cậu sang mình… nghe mấy bài thơ cháu nó vừa làm…

- Thơ? Thằng Dương đã lại làm thơ?

- Không - anh Tuyến lắc đầu - thằng ấy hỏng rồi, vứt đi rồi, tôi đã hoàn toàn không còn hy vọng gì về nó. Hôm nay mời cậu sang là… nghe thơ của cái Vỹ… cháu nó mới làm… rất khá!

Tất nhiên là tôi không thể thoái thác lời mời của anh, dù trong bụng rất ngỡ ngàng. Mọi việc diễn ra tương tự như lần trước, cái lần đầu tôi được nghe thơ của thằng Dương.

Từ nhà anh chị Tuyến bước ra, khi anh Tuyến đang dặn dò cái Vỹ và chị Tuyến đang âu yếm vuốt tóc nó, tôi không khỏi ngậm ngùi nhớ đến nhà thơ đi trước: anh của Vỹ Cầm - nhà thơ Dương Cầm bây giờ đang ở đâu, sống ra sao? Tài năng ngắn ngủi “huy hoàng rồi chợt tắt” ấy vẫn làm tôi rất băn khoăn… Những tiếng reo hò ầm ĩ bỗng rộ lên cạnh tôi. Một đám trẻ đang say sưa quần nhau trong một trận bóng dữ dội. Tôi nhận ra thằng Dương. Nó mặc quàn soóc, áo may ô trắng, mặt nhễ nhại mồ hôi, tranh cướp bóng với một thằng bé béo tròn béo trục. Lạ quá! Tôi trông Dương hồng hào khỏe khoắn, linh lợi khác hẳn trước kia. Nó cười ngặt nghẽo, nhảy cẫng lên vì vừa sút thắng được một bàn… Tôi gọi và vẫy nó. Nhận ra tôi, nó chạy lại. Hai con mắt sáng lay láy trên khuôn mặt vui vẻ đỏ bừng bừng. Tôi chăm chú quan sát Dương. Nó hỏi tôi:

- Chú vừa ở nhà cháu ra phải không? Chú nghe cái Vỹ em cháu đọc thơ?

Tôi gật đầu. Nó toét miệng cười, rồi cũng gật gù:

- Thé là từ nay cái Vỹ khổ rồi…

Mặt nó ánh lên vẻ tinh quái. Tôi vội túm lấy tay nó:

- Dương, thế còn cháu, cháu đã… Chú hỏi thật: chú vãn không hiểu tại sao bỗng dưng cháu lại… Cháu đặt những câu nhắng nhít ấy để làm gì?

Nó ngần ngừ, rồi nói:

- Về những câu hỗn với chú, cháu xin lỗi chú. Cháu làm vậy là để… bố cháu đừng bắt cháu là thơ nữa. Cháu chán lắm rồi! Cháu không thích làm thơ, bố cháu cứ bắt… cháu không được đi chơi. Không chịu được nữa, cháu phải liều…

Tôi ngẩn người. Tôi hiểu ra rồi. À! Thằng láu cá! Nó cần sống như mọi đứa trẻ khác, bố nó muốn nó như cái cây bị uốn bẻ trái với tự nhiên, nó đã tìm cách vùng ra, nó là đứa trẻ khôn ngoan…

Nhìn theo thằng Dương hớn hở chạy nhảy giữa đám trẻ, bất giác tôi hình dung ra cảnh tượng trong nhà anh Tuyến lúc này: cái Vỹ đang cắn bút ngồi trước bàn, chị Tuyến chăm chăm nhìn con, cạnh đó, anh Tuyến đi đi lại lại, nét mặt đầy nghiêm nghị, quyết tâm canh giữ và rèn đúc kỳ được một tài năng cho văn học nước nhà.