"Vân chữ" của Quang Dũng khác "vân chữ" của Tố Hữu như thế nào?

Trong bài thơ "Vân chữ", Lê Đạt viết: "Mỗi công dân đều có một dạng vân tay/ Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ/ Không trộn lẫn" Từ hai đoạn thơ dưới đây, hãy chỉ rõ dạng "vân chữ" "không trộn lẫn" của mỗi nhà thơ:


Ba Vì - Tranh của Quang Dũng

 

 

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
(Tây Tiến - Quang Dũng)
"Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy"
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Bài văn đạt điểm cao của học sinh Lâm Đàm Thiều Ly - lớp 12D2 (khóa 2012- 2015)
Cõi đời là cõi hữu hạn. Nhà soạn nhạc thiên tài Beethoven dừng chân tại kiếp sống này và để lại cho đời bản Sonata “Ánh trăng”- bản giao hưởng định mệnh.
Nhà văn Banzac trước khi về với đất mẹ dấu yêu cũng ghi lại tên mình trên tượng đài văn học với “Tấn trò đời” .
Sự đời “thương hải tang điền”, rồi một ngày kia dòng sông năm tháng sẽ cuốn đi tất cả. Những thành quách lâu đài, những kì quan của tạo hóa rồi cũng sẽ dần phôi pha... Thế nhưng, giữa dòng chảy nghiệt ngã ấy, người đời vẫn nhớ đến một ngòi bút Quang Dũng tài hoa, một tiếng thơ thiết tha Tố Hữu, đúng như Lê Đạt viết:
“Mỗi công dân đều có một dáng vân tay
Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn”
( Vân chữ)
Quan điểm này đã được thể hiện rõ qua đoạn thơ của nhà thơ Quang Dũng trong “Tây Tiến”
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi?
Và đoạn thơ của nhà thơ Tố Hữu trong “Việt Bắc”
“Nhớ ai như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng tản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê rơi đầy”
Nhà thơ là danh hiệu cao quý mà không phải ai cũng có, dù cho “bản chất của mỗi người là nghệ sĩ” (M.Garti), dù cho ai ai cũng có một nhà thơ ẩn khuất trong tâm hồn mình. Hai chữ tài năng đâu phải nhà thơ nào cũng có được. Chỉ có những nhà thơ thật sự xuất chúng mà theo Lê Đạt là có “vân chữ” riêng mới có thể xứng đáng với tiếng gọi “tài năng” này. Với Lê Đạt, nếu như “vân tay” là những đường nét chỉ có duy nhất ở mỗi người, dựa vào đó để phân biệt người này với người khác thì để phân biệt nghệ sĩ thứ thiệt với người nghệ sĩ tầm thường, “vân chữ” là một công cụ đắc lực. Rất nhiều nhà thơ đã sinh ra và ở lại giữa cuộc đời này nhờ vào “vân chữ” – một giọng nói riêng, phong cách nghệ thuật độc đáo và riêng biệt. Cũng giống như vân tay, phong cách nghệ thuật của mỗi người cũng một khác. Đây cũng là lý do cốt yếu tạo nên sự đa dạng cho văn chương.
Khổ thơ đầu của bài thơ “Tây Tiến” là một minh chứng rõ nét cho “vân chữ” tài tình của Quang Dũng. Bằng nỗi nhớ về đồng đội, về chiến trường năm nào, nhà thơ bật lên một tiếng gọi tha thiết, bâng khuâng khi đứng trước kỷ niệm đã xa:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nhịp thơ êm đềm, giàu cảm xúc biểu cảm được người thi sĩ trở về với cảnh thiên nhiên Tây Bắc, với dòng sông Mã hiền hòa chảy qua Việt Nam rồi trở về với biển khơi xanh thẳm. Đó là dòng sông in dấu bao dấu chân của đoàn quân “Tây Tiến”, là chứng nhân bao kỷ niệm buồn vui của những người lính trẻ kiên cường, là người bạn tiễn đưa bao anh lính trẻ về với đất mẹ, về với cõi vĩnh hằng. Với Quang Dũng, cả sông Mã và Tây Tiến đều đã “xa rồi”. Hai tiếng “xa rồi” khác gì đâu tiếng thở dài, nuối tiếc về hình ảnh dòng sông giờ chỉ còn lại trong kỷ niệm, trong ký ức của người ra đi, thức dậy trong lòng thi nhân nỗi nhớ:
“Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Đó là nỗi nhớ về núi non Tây Bắc hùng vĩ năm nào, là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, nơi chôn bao lớp xác quân thù và cũng là người bạn đồng hành, chở che cho những anh lính trên đoạn đường hành quân đầy gian khổ:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
( Việt Bắc – Tố Hữu)
Một câu thơ thôi mà biết cao tình cảm dồn nén trong điệp từ “nhớ”, từng lớp sóng của nỗi nhớ dào dạt, mạnh mẽ dâng trào trong tâm hồn đang hướng về phương xa để rồi thúc giục ngòi bút viết lên từng dòng thơ đong đầy cảm xúc, gọi tên nỗi nhớ vô hình: “nhớ chơi vơi”. Đây không phải là lần đầu tiên người đọc bắt gặp nỗi nhớ ấy trong thơ, cũng đồng nghĩa với việc trước Quang Dũng cũng đã có người gọi tên nỗi nhớ ấy rồi. Ca dao xưa từng nói:
“Ta về nhớ bạn chơi vơi”
Đến Xuân Diệu, nhà thơ cũng từng giãi bày:
“Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Khác với nỗi nhớ về một người, nỗi nhớ về tình riêng ấy, nỗi “nhớ chơi vơi” của Quang Dũng kết thúc bằng hai âm mở mang âm hưởng vọng dài, lan tỏa. Tiếng gọi như vọng ra từ những vách đá của núi rừng Tây Bắc, như vọng ra từ cõi nhớ ngàn trùng của nhà thơ. Câu thơ đọc lên nhẹ tênh, vô hình vô lượng như lại có sức ám ảnh vô cùng.
Dòng cảm xúc bắt nhịp thời gian và không gian đưa nhà thơ trở về với những địa danh gắn liền với kỉ niệm:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Hai địa danh đứng đầu dòng thơ dẫn dắt người đọc hướng về miền đất xa xôi, hoang dã, mới nghe mà đã thấy chồn chân mỏi gối rồi. Riêng từ “mỏi” cũng đủ để tái hiện lại hiện thực gian nan, vất vả của cuộc đời người lính trong những năm tháng chiến đấu. Trong thời binh lửa tao loạn là thế nhưng người lính vẫn rộng mở tâm hồn, tinh tế đón nhận vẻ đẹp “hoa về trong đêm hơi”. Thật đẹp làm sao hai chữ “hoa về”! Đó là những bông hoa rừng Tây Bắc rung rinh chào đón những người con ưu tú của dân tộc. Đó là những ngọn đuốc hoa của người dân núi cao đón bộ đội về với rừng, với bản! Từ thơ của Quang Dũng hàm chứa tất cả, làm ấm lòng người chiến sĩ trong những ngày tháng gian lao. Hình ảnh thơ như tượng trưng cho sự lạc quan, yêu đời trong tâm hồn người lính trẻ, mãi là vẻ đẹp lãng mạn của những người thanh niên đất Hà Thành.
Nỗi nhớ dựng kỉ niệm thành bức tranh Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, nổi bật với bức chân dung của người lính Tây Bắc
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”
Câu thơ có bảy chữ mà có tới 5 thanh trắc nghe sao thật nhọc nhằn, vất vả. Trở lại gần ba trăm năm về trước, khi miêu tả con đường đưa Kiều đến lầu xanh, đại thi hào Nguyễn Du cũng từng viết:
“Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh”
(Truyện Kiều)
Cũng như Nguyễn Du, Quang Dũng đã sử dụng những thanh trắc để làm nổi bật con đường Tây Tiến gian khổ và hiểm trở. Lời thơ gợi cho người đọc hình dung về địa hình khắc nghiệt trước không gian bao la của đất trời. Bằng từ láy “khúc khuỷu”, “heo hút” cùng “dốc” nối “dốc”, Quang Dũng đã mở ra một không gian ba chiều khiến hình ảnh thơ được chạm nổi thành bức tranh phù điêu của tạo hóa nơi núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Nhưng đẹp thay, hình ảnh người lính trước không gian bao la không hề nhỏ bé, hữu hạn. Trung tâm thần hứng của đoạn thơ dồn vào ba chữ “súng ngửi trời”. Quang Dũng không nói người lính mà ta vẫn thấy người lính, từ “ngửi” vẽ ra hình ảnh người lính chót vót trên đỉnh núi, là một nhân hóa tinh nghịch gợi ra vẻ đùa tếu hóa. Nếu chỉ là “súng chạm trời” câu thơ sẽ làm mất đi vẻ ngang tàng và bản lĩnh của những anh lính ra đi từ thủ đô hoa lệ. Họ đã vượt qua và chinh phục được thiên nhiên với một vẻ đẹp riêng
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều”
Đến đây nhà thơ tiếp tục nhớ lại những chặng đường hành quân gian khổ của người lính từ đó làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của họ:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi”
Câu thơ ngắt nhịp 4/3 cùng với điệp từ “ngàn” ở 2 vế thơ kết hợp với động từ chỉ hướng “lên” “xuống” tạo nên nét gập gẫy đầy ấn tượng, gợi hình dung những con dốc đột ngột dựng đứng rồi đột ngột hạ xuống đầy hiểm trở. Thế nhưng bước chân người lính đã vượt qua được tất cả, chinh phục được thiên nhiên và cảm nhận vẻ đẹp của đất trời Tây Bắc :
“Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi”
Câu thơ như giai điệu buông thả mở ra hình ảnh người lính dừng chân, phóng tầm mắt ra xa để thấy những mái nhà nơi bản làng thấp thoáng, mờ ảo trong màn mưa trắng xóa đất trời. Câu thơ thể hiện sự thảnh thơi, nhẹ nhõm, thể hiện chất lãng mạn, bay bổng – một nét đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến.
Đoạn thơ có thể tái hiện lại chặng đường đầy gian khổ cũng như vẻ đẹp của người lính Tây Tiến là nhờ bút pháp lãng mạn. Những gian khó, nhọc nhằn được tái hiện lại thật sắc nét qua những hình ảnh “dốc”, “núi”, “cồn mây”… Ngoài ra thủ pháp đối lập còn tạo nên sự chông chênh, chót vót của hình ảnh con người trên đỉnh núi cheo leo. Cũng có thể nói, đoạn thơ là một phần đặc trưng cho phong cách nghệ thuật của Quang Dũng: Viết rất hay về người lính vệ quốc, trong thế giới nghệ thuật của ông luôn có một ngòi bút giàu chất lãng mạn, có khả năng diễn tả tinh tế một vẻ đẹp của thiên nhiên, con người.
Đến với đoạn thơ trong “Việt Bắc” của Tố Hữu, người đọc lại có dịp khám phá “vân chữ” “không trộn lẫn” của Tố Hữu- một nhà thơ, hồn thơ của dân tộc. Trong giây phút chia tay đầy bịn rịn, luyến tiếc, hình ảnh Việt Bắc trong hồi tưởng của các cán bộ Cách mạng dần hiện lên như một thước phim quay “chậm về” cuộc sống trong “mười lăm năm ấy” Có lẽ chẳng có ai “thật” hơn Tố Hữu khi so sánh.
“Nhớ gì như nhớ người yêu”
Cách liên tưởng này cũng tô đậm thêm tấm lòng nặng tình, nặng nghĩa, trước sau như một của người ra đi dành cho người ở lại! Đâu chỉ có người ở lại mới mang nỗi nhớ nặng lòng, người ra đi cũng nhớ lắm những ngày tháng cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, những vẻ đẹp rất “Việt Bắc” không nơi đâu có:
“Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Khung cảnh thơ mộng, thi vị ấy chỉ có ở vùng chiến khu Việt Bắc lịch sử. “Trăng” và “nắng” vẫn là hai hình ảnh thơ không còn xa lạ gì trong kho tàng thơ Việt Nam. Hồ Chủ tịch từng có một hình ảnh trăng rất thơ mộng, yên tĩnh:
“Khuya về bát ngát, trăng ngân đầy thuyền”
(Rằm tháng riêng)
Thế nhưng hai hình ảnh này được đặt trong không gian đặc trưng của Việt Bắc lại mang vẻ đẹp rất riêng, gợi ra cái thơ mộng cùng vẻ hoang dã của rừng núi. Đây cũng là thời gian hò hẹn của lứa đôi. Bóng dáng những chàng trai và những cô gái e ấp, hẹn hò đôi lứa tự bao giờ đã trở thành một phẩm chất của cảnh Việt Bắc thanh bình, là ký ức không thể quên của những cán bộ cách mạng khi về xuôi chia tay Việt Bắc. Họ ra đi mang theo dư âm của khung cảnh thi vị và mang theo cả hình ảnh bản làng chìm khuất giữa khói sương hư ảo.
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Cận cảnh từng bản làng ấy là những cố gái Việt Bắc đang thao thức chờ đợi bên bếp lửa. Trong nỗi nhớ về quá khứ, ta thấy được cả hơi ấm của tình người, tình đời mà quân dân dành cho nhau suốt mười lăm năm trường kì kháng chiến.
Hình ảnh đặc trưng của núi rừng Việt Bắc là những hồi ức mà cán bộ cách mạng không bao giờ quên:
“Nhớ từng rừng nứa, bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
Ngày mới đến, tre nứa trải dài, bát ngát sức sống như mang bóng dáng của những con người nơi đây. Ngày họ đi, tre nứa còn là biểu tượng cho tâm hồn cả một đồng bào sắt son, thủy chung tình nghĩa bởi khi nhớ đến loài tre, họ sẽ nhớ đến những tháng ngày chung sống trên miền núi phía Bắc này. Những địa danh “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” không chỉ là nơi lưu dấu những chiến công mà còn là nơi lưu giữ những kỉ niệm. Cho nên cái “ăm ắp” kia không chỉ là hình ảnh dòng nước mà còn là sự ăm ắp của nghĩa tình. Hình ảnh Việt Bắc trong hồi tưởng ấy ít nhiều cũng thể hiện được tình cảm gắn bó tha thiết sâu nặng của cán bộ về xuôi dành cho những con người khoác “áo chàm”.
Khác với bài thơ “Tây Tiến”, đoạn trích trong “Việt Bắc” sử dụng ngôn từ mộc mạc, giản dị, ít mang giá trị tạo hình. Thể thơ truyền thống và cách so sánh, diễn đạt trong ca dao dâm ca khiến bài thơ trở nên quen thuộc, dễ gần gũi với độc giả. Điều này cũng mang nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Tố Hữu, đậm đà tính dân tộc.
Hai đoạn thơ đều viết về một giai đoạn hào hùng của dân tộc: 1945 – 1954- giai đoạn kháng chiến chống Pháp, nhưng bên cạnh chủ đề khác nhau còn được thể hiện theo hai phong cách nghệ thuật khác nhau. Một bên lãng mạn, tinh tế, một bên đậm đà tình dân tộc với khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Sự khác nhau giữa 2 phong cách là do Tố Hữu luôn song hành cùng các giai đoạn đấu tranh cách mạng của dân tộc, lại là 1 con người yêu nước, vui sướng khi được Đảng để góp sức cho nước nhà.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim”
Vì vậy mà thơ Tố Hữu đậm tính dân tộc và khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Còn Quang Dũng vốn là một nhà thơ mang ngòi bút với vẻ đẹp hào hoa, thanh lịch, lại từng trực tiếp tham gia vào đoàn binh Tây Tiến nên những kỉ niệm được khắc họa lại vô cùng chân thực. Hai bài thơ với hai “vân chữ” khác nhau mang trong mình những vẻ đẹp riêng, những vẻ đẹp làm nên một hồn thơ “Quang Dũng”, làm nên một Tố Hữu của người Việt Nam, sông Việt Nam, đất nước Việt Nam.
Sedrin từng nói: “Văn học vượt qua mọi quy luật băng hoại của thời gian. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Việt Bắc” của Tố Hữu là những minh chứng hùng hồn cho nhận định muôn thuở ấy. Nhưng vần thơ ấy sẽ mãi ngân vang, bay xa trên thi đàn văn học nước nhà để mỗi người dân Việt Nam đều có quyền tự hào nói rằng chúng ta đã từng có một Tố Hữu như thế, một Quang Dũng như thế!