Cơ sở pháp lý chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
1. Từ thế kỷ XV - XVIII Năm 1075, vua Lý Nhân Tông có sai Lý Thường Kiệt vẽ hình thế núi sông của 3 Châu: Ma Linh, Địa Lý và Bố Chính đến năm 1773 một cuộc đi tuần quan sát núi sông vua Lý Anh Tông ra lệnh cho các quan soạn ra bản đồ địa lý nước ta. Đời Trần ngoài cuốn An Nam Chí Lược của Lê Tắt trong đó có phần dành cho địa chí, theo các nhà nghiên cứu có khả năng còn có cuốn sử Việt ghi chép về địa lý n¬ước ta như¬ Việt sử C¬ương mục, Đại Việt Sử ký... Ngoài ra còn nhiều cuốn sử ký và địa lý nư¬ớc ta cũng như¬ nhiều cuốn sách quý khác từ đầu thế kỷ XV trở về trư¬ớc bị quân Minh tiêu hủy hoặc mang về Kim Lăng.
Đời nhà Lê có quyển sách địa lý đầu tiên của người Việt Nam là cuốn Dư Địa Chí của Nguyễn Trái. Kế đến, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Tha vua Lê Thánh Tông có ra lệnh cho các quan thân trấn thủ xem xét địa hình núi sông hiểm trở thuộc địa phương mình vẽ thành bản đồ giao cho Bộ Hộ để lập thành bản đồ của lãnh thổ Đại Việt. Cuốn Thiên Nam Từ Chí Lộ Đồ Thư (hay Toàn Tập An Nam Lộ) của Đỗ Bá tự Công Đạo được soạn vẽ theo lệnh Chúa Trịnh những năm niên hiệu Chính Hoà (1680-1705), căn cứ vào những chi - tiết thu thập được từ thế kỷ XV. Có thể xem đây là một trong những tài liệu xa nhất của Nhà nước phong kiến Việt Nam còn tồn tại đã ghi phần chú thích bản đồ vùng phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam với nội dung: "Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa), dài tới 400 dặm, rộng 20 dặm. Từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Kỳ mỗi lần có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy; giô Đông Bắc thì thương thuyền chạy ở ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả. Hàng hoá thì đều để nơi đó. Họ Nguyễn (Chúa Nguyễn) mỗi năm vào cuối mùa Đông đa 18 chiếc thuyền đến đây thu hồi hàng hoá, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn". Tháng cuối mùa đông âm lịch thường rơi vào tháng 2, tháng 3 Dương lịch, khí hậu vùng Hoàng Sa đang vào mùa khô và quan trọng là không còn bão nữa. Đây là thời gian thuận lợi nhất để các Chúa Nguyễn sai người ra thu hồi hàng hoá của những chiếc tàu bị chìm trong khu vực Hoàng Sa. Chi tiết lịch sử này đã chứng tỏ một cách hùng hồn các hoạt động xác lập chủ quyền của người Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Vì nếu quần đảo Hoàng Sa thuộc về nước khác thì không thể có chuyện hàng năm, theo từng thời kỳ nhất định, hàng đoàn thuyền của người Việt cứ đều đặn ra Bãi Cát Vàng.(Hoàng Sa) để chở hàng hoá quý giá về một cách ngang nhiên không bị ai phản ứng. Trong Giáp Ngọ Bình Nam Đồ, bản đồ xứ Đàng Trong do Đoan Quận Công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Bãi Cát Vàng cũng được ghi nhận là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Nh vậy, những tư liệu lịch sử còn sót lại cho thấy muộn nhất là vào thế kỷ XV đến thế kỷ XVII người Việt Nam đã từng ra vào Bãi Cát Vàng. Trong cuốn sách "Univers, histoire et decription de tous les peuples, de leurs religions moeurs et coutumes" viết năm 1833, Đức Giám mục Taberd cũng cho biết: "Chúng tôi cũng xin lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels mà người Việt gọi là Cát Vàng (Hoàng Sa) gồm rất nhiều hòn đảo chằng chịt với nhau, lỏm chỏm những đá nhô lên giữa những bãi cát đã được người Việt xứ Đàng Trong chiếm cứ”. Đáng lưu ý là trong nguyên văn của vị giám mục này tên Cát Vàng được viết theo âm tiếng Việt (Paracels nom mé par les Annamites Cát Vàng cu xoang Sa).
2. Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong thư tịch triều Nguyễn
Thời nhà Nguyễn có rất nhiều tài liệu chính sử, nhiều sách ghi chép của các học giả nổi tiếng đương thời minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các tài liệu cho thấy hoạt động thực thi chủ quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã phát triển với một trình độ cao hơn so với các triều đại trước đó và mọi chi tiết đều được minh định, lưu trữ bằng những văn bản, mộc bản chính thức của Nhà nước trong văn khố quốc gia.
Trước hết là cuốn Dư Địa Chí trong bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833). Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí là một công trình biên khảo quy mô lớn gồm 49 quyển ghi chép hầu hết các t liệu lịch sử của các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong đó Địa Dư Chí quyển 5, phần Quảng Nam có nói đến phủ Tư Nghĩa mà phần lớn nội dung nói về Hoàng Sa. Điều này chứng tỏ Hoàng Sa là một bộ phận quan yếu đối với phủ Tư Nghĩa bấy giờ. Hoàng Việt Dư Địa Chí, được Quốc Sử Quán khắc in vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833), nội dung có nhiều điểm giống Dư Địa Chí, có đoạn nói về hoạt động của đội Hoàng Sa.
Đại Nam Thực Lục Tiền Biên là loại tài liệu chính thức đầu tiên viết về Hoàng Sa trong thời kỳ Chúa Nguyễn mà triều đình nhà Nguyễn cho chép lại. Tài liệu này chép rằng, ngoài biển Quảng Ngãi có một loại hình quần đảo tục gọi là bãi Hoàng Sa có hơn 130 cồn cát không biết dài tới mấy ngàn dặm. Tài liệu xác định danh xưng "Vạn Lý Hoàng Sa Châu”, các sản vật, việc lập đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải thuộc đội Hoàng Sa để kiểm soát các đảo phía Nam, tức vùng Côn Đảo, Trường Sa ngày nay.
Đại Nam Thực Lục Chính Biên (Quốc Sử Quán khắc in năm 1848) có 11 đoạn trong nhiều quyền chép về Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về việt thực thi chủ quyền cuả Việt Nam trên hai quần đảo này. Quyển 50 kể chuyện, tháng Giêng nam Ất Hợi (1815) vua Gia Long sai Phạm Quang Ảnh thuộc đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa xem xét, đo đạc thủy trình (Phạm Quang Ảnh là người xã An Vĩnh, Cù lao Ré, nay thuộc thôn Đông, xã Lý Vĩnh, đảo Lý Sơn). Quyển 52 chép, năm Bính Tý (1816), vua Gia Long lại sai thủy quân và đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa xem xét, đo đạc thủy trình. Như vậy theo chính sử trong 2 năm liên tiếp vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn (Gia Long) đã ít nhất 2 lần sai người ra Hoàng Sa thực thi chủ quyền của Việt Nam từ trên quần đảo này. Quyển l04 cho thấy lần đầu tiên trong chính sử của triều đình Việt Nam ghi rõ lời của một hoàng đế Việt Nam (vua Minh Mạng) đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, khẳng định Hoàng Sa nằm trong vùng biển Việt Nam và sai người dựng miếu, lập bia, trồng cáy để ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, tàu thuyền dễ nhận ra tránh mắc cạn. Quyển 122 chép: "Nam Giáp Ngọ, Minh Mạng thứ 15 (1884) sai giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ". Quyển l65 chép lại rất rõ quan điểm của Bộ Công và hoạt động của Bộ này tại Hoàng Sa: "Năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu: "Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển nước ta, rất là hiểm yếu, từng sai vẽ bản đồ riêng về hình thể xa rộng, ta mới chỉ vẽ được một, rồi lại cũng chưa biết nên vẽ làm thế nào. Hàng năm, thường phái người đi xem xét cho khắp để thông thuộc đường biển. Xem từ năm nay về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng; chọn phái thủy quân biền binh và giám thành đáp một chiếc thuyền ô nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, giao cho hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, bãi cát nào, phàm khi thuyền đến nơi, tức thì cứ chiếu chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng và nước biển, bãi biển xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở bình dị thế nào, phải xem xét đo đạc rõ ràng, vẽ thành bản đồ...". Quyển này còn chép: "Vua đã y theo lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật điều binh thuyền đi đem theo 10 cái bài gỗ dựng bàn dấu mốc, chủ quyền", mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, mặt khắc những chữ: "Minh Mạng thập thất niên, Bính Thân, thủy quân chinh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa đường độ chí thủ lưu chí đắng tự" (Năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17, cai đội thủy quân Phạm Hữu Nhật phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu). Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ là bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép những việc làm của 6 bộ được hoàn thành trong khoảng thời gian từ năm 1848 đến 1851 cũng có chép về việc lập miếu, dựng bia, trồng cây ở Hoàng Sa và khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực.
Bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí ấn hành năm Duy Tân thứ 3 (1910) chép, có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi, tiếp tục khẳng định hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản, cho biết thêm chi tiết về hành động thực thi chủ quyền của Việt Nam thời vua Minh Mạng nh sai bỉnh lính xây chùa, dựng bia... Việt Sử Cương Giám Sử Lược của Nguyễn Thông có đoạn tả sơ lược về Hoàng Sa, có miếu cổ lợp ngói bảng khắc mấy chữ "Vạn Lý Ba Bình", binh lính thường đem những hạt quả phương Nam mà vãi để mọc cây làm dấu. Trong Quốc Triều Chính Biên Toát yếu của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn đời vua Minh Mạng có chép vế chuyện xây chùa, xây miếu, dựng bia, cắm mốc gỗ, vẽ bản đồ...ở Hoàng Sa như các sách nói trên. Ngoài ra, sách này còn ghi chép việc có 90 người trên tàu buôn của Anh qua bãi Hoàng Sa bị nạn đã ghé vào bãi biển Bình Định vào tháng 12 năm Bính Thân(18S6) cầu cứu. Vua sai người tìm nơi cho ở và háu cấp tiến gạo. Thuyền trưởng, đầu mục (thuyền buôn Anh) tỏ ra rất cảm kích Vua sắc cho phái viên đi Tây, Nguyễn Tri Phương đem những người ấy xuống bến ở Hạ Châu đưa về nước".
Một nguồn tài liệu khác có giá trị cao để khẳng định quá trình Nhà nước phong kiến Việt Nam thời Nguyễn có nhiều hành động thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa là các châu bản triều Nguyễn. Châu bản triều Nguyễn ghi chép cụ thể, rõ ràng các chỉ dụ của nhà vua về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của quan lại địa phương về việc thuyền buôn nước ngoài mắc cạn ở Hoàng Sa; các bản tấu của Bộ Công về những công việc mà các đoàn công vụ ra Hoàng Sa đã làm, hoặc chưa làm xong... Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (1838) cho biết đoàn khảo sát Hoàng Sa trở về báo cáo đã lên được 25 đảo, còn một số đảo hơi xa gặp gió bão lớn chưa lên được... Ngoài ra cũng còn rất nhiều tài liệu khác là các trước tác, ghi chép của các học giả, quan lại đương thời có liên quan tới việc thực thi chủ quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như bài Vọng Kiến Vạn Lý Trường Sa của Lý Văn Phúc chẳng hạn. Theo tài liệu này thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã từng thuê các thủy thủ dày dan kinh nghiệm và các phương tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây trực tiếp dẫn dắt một số con thuyền vượt Biển Đông để khảo sát đo đạc vẽ bản đồ. Điều này cũng góp phần lý giải bản đồ khu vực biển đảo của Việt Nam thời nhà Nguyễn tuy vẫn giữ cách vẽ truyền thống nhưng cũng đã bắt đầu cập nhật thông tin mới và độ chính xác cao như bản đồ hàng hải của các nước phương Tây bấy giờ.
3. Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thời Pháp thuộc
Từ khi triều đình Nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hòa ước đi từ nhượng bộ này tới nhượng bộ khác (1862, 1874, 1884) với chính phủ Pháp nước ta bước vào giai đoạn các sử gia gọi là Thời kỳ Pháp thuộc. Nhà nước Việt Nam thời kỳ này bị suy yếu, chính quyền thuộc địa Pháp thay mặt Nam Triều trong những quan hệ ngoại giao, đồng thời đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trong khuôn khổ của những cam kết chung, Pháp tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Về phần mình, vương triều nhà Nguyễn cũng luôn bằng mọi cách khẳng định chủ quyền của người Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mỗi khi có cơ hội.
Vào thờikỳ đầu của chế độ thuộc thuộc tại Đông Dương, qua th từ ngoại giao cho thấy nước Pháp chưa thật sự hiểu hết các quyền từ xa xưa của các nhà nước phong kiến Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nên họ đã có sự thụ động nhất định và tạo cơ hội cho Trung Quốc tiến hành một số hoạt động thực hiện tham vọng lấn chiếm lãnh thổ trên Biển Đông. Tuy nhiên, cũng không thể kết luận rằng chính quyền thuộc địa Đông Dương không hề quan tâm và bỏ mặc các quần đảo này.
Theo báo La Nature số 2916 ngày 1/11/1933, năm 1899 Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã ra lệnh xây dựng một hải đãng trên đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, dự án này đã không thực hiện được vì thiếu kinh phí. Bộ Thuộc địa và Phủ Toàn quyền Đông Dương ngay từ năm 1896 cũng đã đề cập tới chủ quyền của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: "Một nhà báo, ông Charbrier lúc đó đã bày tỏ ý đồ đặt tại quần đảo Hoàng Sa một trạm tiếp tế cho ng dân. Theo ông Pauldoumer, ý định do ông Charbrier đưa ra không có một cơ may thành công nào, nhưng thực ra là nhằm ngăn cản một cường quốc khác đang nhòm ngó các đảo đó và có lẽ lợi ích hơn là nên xây dựng một hải đăng ở đây . Nhng dự án hải đãng cũng không thực hiện được như đã trình bày phần trên. Tuy vậy, hải quân Pháp vẫn thường xuyên tuần tiễu vùng biển này để giữ an ninh và cứu giúp các tàu thuyền bị đắm.
Theo tài liệu của P.A. Lapicque "Về các đảo Hoàng Sa", các tàu tuần tra của Hải quân Pháp đã thường xuyên đến quần đảo Hoàng Sa khi hay tin có vợ, con của những ngời đánh cá Việt Nam bị người Trung Quốc bắt đem bán. Các tàu tuần tra này cũng can thiệp khi biết tin có vũ khí, đạn dược hay thuốc phiện được dân buôn lậu cất giấu trên các đảo này. Như vậy, từ cuối thế kỷ XIX, một hình thức cảnh sát biển của chính quyền thuộc địa Đông Dương đã hoạt động thực tế tại quần đảo Hoàng Sa, bảo vệ ng Nam và ngăn chân tội phạm quốc tế.
Trước các chỉ trích của dư luận cũng như thực tế diễn biến phức tạp trên Biển Đông, từ đầu thế kỷ XX, Pháp đã bắt đầu có những động thái tích cực hơntrong việc khẳng định chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bên cạnh việc gìn giữ an ninh trên Biển Đông, các năm 1917- 1918 trong báo cáo của chính quyền Pháp tại Đông Dương có đề cập đến việc lắp đặt đài radio TSF, trạm quan sát khí tượng, hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1925, Viện Hải Dương Học và Nghề Cá Đông Dương cử tàu De Lanessan ra khảo sát quần đảo Hoàng Sa. Ngoài tiến sĩ Krempf, Giám đốc Viện Hải Dương Học, cố nhiều nhà khoa học khác tham gia nghiên cứu về địa chất, về sinh vật...
Các nhà khảo sát đã phát hiện một tầng đá vôi phosphat dày khoảng 1 mét với hàm lượng phosphoric từ 23% đến 25% trong tầng mặt và 42% ở tầng sáu. Sựkhám phá này mở ra cơ hội cho công việc khai thác phân bón phosphat về sau. Nam 1927, Sở Địa Chất và Sinh học Đại Dương cho người ta khảo sát ở quần đảo Trường Sa. Các cuộc khảo sát khoa học đã đưa tới kết luận Hoàng Sa vàTrường Sa là sự nhô lên của một thềm lục địa liên tục nhờ các địa tầng dưới biển kéo dài dãy Trường Sơn từ đèo Hải Vân ra Biển Đông. Nếu nước biển rút xuống từ 600 – 700M, Hoàng Sa và Trường sa sẽ gắn với bờ biển Việt Nam thành một dãi đất liền thống nhất.
Tháng 11/1921, Thượng Nghị Sĩ Pháp De Monzie viết thư cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa nói rằng: "Các quyền của nước An Nam (Việt Nam) và do đó của nướcpháp đối với quần đảo Hoàng Sa dường như không thể tranh cãi từ thế kỷ XVIIvà các đảo này là một địa điểm tốt nhất cho việc đặt một trạm vô tuyến điện (TSF) để dự báo các trận bão".Ngày 8/3/1925, Toàn quyền Đông Dương ra tuyênbố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Pháp. Tháng 11/1928, Thống Đốc Nam Kỳ cấp giấy phép nghiên cứu mỏ ở quần đảo Trường Sacho Công ty Phosphat Bắc Kỳ Mới. Trong thư ngày 20/3/1980, Toàn Quyền ĐôngDương gởi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa Pháp xác nhận: "Cần thừa nhận lợi íchnước Pháp có thể có trong việc nhân danh An Nam, đòi chủ quyền đối với quầnđảo Hoàng Sa. Ngày 13/4/1880, thông báo hạm La Malicieuse ra quần đảoTrường Sa và treo quốc kỳ Pháp. Ngày 28/9/1880 của chính phủ Pháp gởi thôngcáo cho các nước thứ ba biết về hành động chiếm đóng thực thi chủ quyền củaPháp (nhân danh nhà nước Việt Nam được Pháp bảo hộ) trên quần đảo
Trường Sa.
(TS. Đỗ Dũng - Hội Địa lý Việt Nam, tổng lược - Còn nữa)
Tin cùng chuyên mục
Cùng tẩy chay hàng Trung Quốc!
13/05/2014
Tết Lào Bunpimay và các CCB Tây Tiến
11/05/2014
Xã ...đồng nát
11/05/2014
Mọi việc có nhà nước lo
09/05/2014
Bi kịch nông dân
07/05/2014