Lan Khai - nghệ sĩ tài năng bị lãng quên?

Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh năm Bính Ngọ 1906 ở Tuyên Quang, song lại có gốc gác dòng họ Nguyễn ở Huế. Ông nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”, để lại hàng trăm tác phẩm văn học, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết.

LAN KHAI, NGHỆ SĨ TÀI NĂNG BỊ LÃNG QUÊN?

 

Trong văn học sử một thời người ta chỉ nhắc đến Lan Khai với tiểu thuyết Lầm Than. Song sự nghiệp văn chương, báo chí của ông không chỉ có vậy, với hàng trăm tác phẩm thuộc đủ các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, lí luận phê bình, tranh phong cảnh, ký hoạ... đủ để khẳng định ông là một nghệ sĩ đa tài. Cũng như Vũ Trọng Phụng, tài năng của ông đã toả sáng ở tuổi dưới 30. Bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta có điều kiện nghiên cứu về ông sâu sắc hơn. Từ tác phẩm, chân dung nhà báo, nhà văn tiêu biểu một thời hiện lên rực rỡ, chắc chắn người đời sẽ còn nhiều điều để viết về ông – một tâm hồn, một tài năng phong phú đa dạng.

Nhà văn – Nhà báo Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh ngày 24 tháng 6 năm 1906 tại bản Luộc, xã Vĩnh Lộc, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, nguyên quán ở tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Thân phụ Lan Khai là cụ Nguyễn Đình Chức, thuộc dòng họ Nguyễn Đình ở Huế, có truyền thống Nho học kiêm lương y nên còn gọi là cụ Lang Chức, từng cùng hai người anh là Nguyễn Đình Cả và Nguyễn Đình Liên hưởng ứng chiếu Cần Vương, ra Bắc tham gia khởi nghĩa Hương Khê, Hà Tĩnh. Cuộc khởi nghĩa thất bại, cụ cùng hai người anh ngược sông Hồng, sông Lô lên Tuyên Quang tìm nơi nương náu. Hai người anh ở lại vùng tỉnh lỵ Tuyên Quang, cụ Nguyễn Đình Chức ngược tiếp lên Chiêm Hóa, một vùng thuộc lưu vực sông Gâm cách tỉnh lỵ Tuyên Quang khoảng 70km, sống bằng nghề dạy học và chữa bệnh cho nhân dân trong vùng. Thân mẫu Lan Khai là cụ bà Lỗ Thị Thục, một phụ nữ đẹp, hiền thục đảm đang, nổi tiếng thuộc nhiều ca dao, truyện cổ, giỏi múa then, hát lượn, là người sau này trở thành hình mẫu trong nhiều trang viết của Lan Khai.

Năm lên sáu tuổi Lan Khai được đến trường Tiểu học của thầy Nguyễn Văn Bảng ở châu lỵ Chiêm Hóa. Thầy Bảng là một nhà giáo yêu nước, coi trọng Quốc văn, rất yêu quí trò Khải và là người có nhiều ảnh hưởng đến tâm hồn tư tưởng của Lan Khai. Năm 1914, gia đình chuyển về xóm Gốc Nội, làng Xuân Hòa (sau là phố Xuân Hòa) thuộc tỉnh lỵ Tuyên Quang, cha mẹ cho ông học chữ Hán với thầy đồ Nguyễn Văn Khoan và học chữ Quốc ngữ tại trường Tiểu học của thầy Quốc Cừu và ông Đốc Diện. Nổi tiếng thông minh ham học, Lan Khai rất giỏi Hán văn, Pháp văn, toán pháp, làm thơ viết văn từ 12 tuổi và đặc biệt có năng khiếu hội hoạ bẩm sinh. Năm 1924, được cha mẹ cho về Hà Nội học trường Bưởi, đến năm học thứ ba ông tham gia bãi khóa đòi thả Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh nên bị Pháp bắt giữ và đuổi học. Một thời gian sau ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, sau các họa sĩ Tô Ngọc Vân, Bạch Yến, Lê Thị Diệu một năm. Luôn là trò giỏi, có biệt tài ký họa, Lan Khai được ông Đốc học nhà trường quí mến, nhưng bị mật thám theo dõi gây nhiều phiền nhiễu nên chưa học hết hai năm ông bỏ về Tuyên Quang dạy học, dịch sách, viết văn, rồi thực hiện cuộc hành trình từ Việt Bắc tới Tây Nguyên và các tỉnh phương Nam để vẽ tranh phong cảnh và sưu tầm văn học dân gian. Cuối năm 1928, Lan Khai tham gia Quốc dân đảng do sự giới thiệu của nhà giáo yêu nước Phạm Tuấn Tài và trở thành nhân vật quan trọng của Đảng. Năm 1930, tổ chức Quốc dân đảng bị lộ, Lan Khai bị thực dân Pháp bắt, kết án tử hình và giam tại Hỏa Lò Hà Nội, cha mẹ ông đã phải dùng tất cả tài sản của gia đình để cứu ông thoát chết. Ra tù, sức khỏe giảm sút rất nhiều, ông trở về Tuyên Quang tập trung nghiên cứu, sáng tác, dạy học, viết báo và miệt mài tự học. Ham học và luôn có ý thức tìm sách tự học, tự nghiên cứu, Lan Khai đã xây dựng được cho mình một thư viện lớn với đủ mọi loại sách của các tác giả danh tiếng trên thế giới về triết học, văn học, mỹ thuật... vì thế vốn tri thức của ông ngày càng sâu rộng, được nhiều trí thức đương thời nể trọng. Cũng trong thời gian này, với vốn tri thức sâu rộng cùng những hiểu biết phong phú tích luỹ được trong những năm sống bên dòng sông Lô giữa núi rừng Việt Bắc và thời gian du ngoạn suốt chiều dài đất nước khám phá thiên nhiên, văn hoá dân tộc và thực tế cuộc sống của người lao động, Lan Khai đã tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị, thường xuyên đăng tải trên các tờ Đông Phương Báo, Ngọ Báo, Đông Pháp, Loa, Ích Hữu… và trở thành cây bút nổi tiếng.

Năm 1934, Lan Khai đưa vợ con về Hà Nội sống trong một căn gác nhỏ ở phố Hăng ri đooc lê ăng, sau chuyển sang căn nhà nhỏ số 26 phố Châu Long. Tại đây, ông vừa dạy học, viết văn, dịch sách, vừa vẽ truyền thần, tranh quảng cáo để đảm bảo cuộc sống cho tám người trong gia đình. Đầu năm 1939, ông chủ nhà xuất bản Tân Dân Vũ Đình Long mời Lan Khai về làm biên tập cho tạp chí Tao Đàn do ông làm chủ nhiệm, tòa soạn đặt tại số 93 phố Hàng Bông, từ đó Lan Khai dồn hết tài năng cho sự nghiệp làm báo viết văn. Đây chính là thời gian Lan Khai viết nhiều và có nhiều sáng tác thành công, được người đương thời đánh giá cao. Căn nhà nhỏ ở phố Châu Long của gia đình ông trở thành nơi tụ họp của các văn nghệ sĩ nổi tiếng: Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Vũ Ngọc Phan, Trần Huyền Trân, Nguyễn Công Hoan, Vũ trọng Phụng, Hải Triều, Ngọc Giao, Vũ Bằng, Hồ ZDếnh, Trương Tửu, Nguyễn Tuân, Nguyễn Mạnh Tường, Thiều Quang Lộc… Ngoài vẽ tranh, làm báo, sáng tác văn chương, Lan Khai còn cùng vợ là bà Hà Thị Minh Kim đảm nhiệm một số vai diễn cho các nhà hát ở Hà Nội, là diễn giả thường xuyên về văn học cho Hội Trí Tri, Hội truyền bá Quốc ngữ của Nguyễn Văn Tố. Cuối năm 1939, Lan Khai bị thực dân Pháp bắt vì nội dung chống đối của các cuốn Lầm Than, Mồ hôi máu. Năm 1943, Lan Khai tham gia Hội Văn hóa cứu quốc tại Hà Nội, được giao tuyên truyền đường lối cách mạng cho Mặt trận Việt Minh và phát hành báo chí bí mật của Đảng. Đầu năm 1944, Lan Khai đưa gia đình trở lại Tuyên Quang, tiếp tục dạy học viết văn, vẽ truyền thần và mở hiệu sách Lan Đình. Thời gian này ông hoàn thiện bộ Vạn hoa từ điển, tập Thơ Lâm Tuyền Khách và hoàn thành nhiều bản thảo dang dở trước đó. Đầu mùa hè năm 1945 Lan Khai bị Nhật bắt giam vì hiệu sách Lan Đình lưu hành báo cách mạng (báo Cứu Quốc và Cờ giải phóng). Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, gia đình Lan Khai đồng lòng hưởng ứng, người con cả Nguyễn Lan Hương tham gia lực lượng tự vệ dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, trực tiếp chiến đấu giải phóng Tuyên Quang. Lan Khai được bầu làm Chủ tịch khu phố Xuân Hòa, tích cực vận động nhân dân đoàn kết đối phó với âm mưu của những lực lượng chống đối cách mạng, chuẩn bị cho con em bình dân học tập, sau đó nhận nhiệm vụ lên An Toàn Khu (ATK) dạy học và soạn thảo công văn giấy tờ theo yêu cầu của cách mạng. Ngày 29 tháng 11 năm 1945, trên đường đi công tác, ông bị sát hại tại khe Ngọn Đồng Ao Lân, bản Lũng Cò, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Sự nghiệp báo chí của Lan Khai bắt đầu từ những năm còn là học sinh Trường Bưởi. Mái trường nổi tiếng có nhiều văn nghệ sĩ theo học là nơi tạo điều kiện cho chàng trai 18 tuổi vốn rất yêu nghệ thuật tiếp xúc với văn chương - báo chí và nhiều văn nghệ sĩ. Hâm mộ Tản Đà, cậu học sinh Trường Bưởi tập viết những bài lai cảo gửi đăng trên An Nam tạp chí do Tản Đà làm Chủ bút. Năm 1927, khi đang theo học tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nhờ có người bạn học là Nguyễn Danh Đăng giới thiệu, Lan Khai được ông Chủ bút An Nam tạp chí giao cho làm thư ký toà soạn. Là người có luôn ý thức học hỏi, tự rèn luyện, lại được làm việc bên cạnh Tản Đà, ngòi bút của chàng trai trẻ càng được rèn giũa có phương pháp hệ thống hơn, những bài lai cảo của cậu học trò trường Cao đẳng Mỹ thuật ngày càng xuất hiện nhiều hơn trên An Nam tạp chí và bút danh “Lan Khai” đã thu hút được sự chú ý của độc giả. Vị trí của Lan Khai thực sự được khẳng định trong báo giới khi ông mới 28 tuổi. Với niềm đam mê sáng tạo, sức sáng tạo nhanh, khoẻ và khả năng làm việc miệt mài, các tác phẩm thuộc nhiều loại hình nghệ thuật liên tiếp ra đời. Bao ý tưởng ấp ủ từ vốn tri thức sâu rộng, sự hiểu biết phong phú tuôn chảy dưới ngòi bút, cho ra đời những bức tranh phong cảnh sinh động, những ghi chép dã sử độc đáo, những nghiên cứu lí luận sâu sắc, những tiểu thuyết, phóng sự chân thực về cuộc sống lao động và tập quán của đồng bào miền núi, về cuộc sống cơ cực của những người phu mỏ bị bóc lột thậm tệ trong các hầm mỏ của thực dân Pháp, và cả những công trình dịch thuật giá trị. Tác phẩm của ông đăng tải trên khắp các báo, tạp chí uy tín đương thời. Các tiểu thuyết Ai lên phố Cát, Cái hột mận, Tiếng gọi của rừng thẳm, Đỉnh non thần đăng trên Phổ thông bán nguyệt san; Một tháng với Tản Đà, Đời làm báo của Tản Đà trên Phụ nữ Tân văn; Cần một ông trời, Cảm tưởng về sách dạy hát, Cái nguy mất gốc, Những câu hát xanh trên Tao Đàn; nhiều bài viết và ký hoạ trên Tiểu thuyết thứ bảy... Sự góp mặt của Lan Khai trên một loạt các tờ báo giai đoạn 1927 – 1945 đã mang lại cho văn chương, báo chí Việt Nam thêm một phong cách mới lạ, mang đậm tính nhân văn, tính dân tộc.

“Lan Khai là một nhà văn rất tham, ông nhúng tay hầu hết các loại tiểu thuyết rồi lại muốn ngả cả về dịch thuật nữa”. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” đã nhận xét về Lan Khai như vậy. Điểm lại sự nghiệp sau 18 năm cầm bút của Lan Khai mới thấy gia tài ông để lại thật phong phú và đồ sộ, thể hiện tài năng và sức sáng tạo hiếm có. Hàng trăm tác phẩm dưới các bút danh Lan, Lan Khai, Huệ Khai, Thục Oanh, Lâm Tuyền Khách, ĐKG, thuộc đủ các thể tài: tiểu thuyết tâm lí xã hội, tiểu thuyết đường rừng, tiểu thuyết lịch sử, truyện ngắn, kí, thơ, nghiên cứu lí luận phê bình, sưu tầm, dịch thuật, tranh phong cảnh, kí họa và nhiều ghi chép, bản thảo còn dở dang. Ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp đáng kể, nhưng thành công hơn cả với tiểu thuyết và nghiên cứu phê bình.

Khảo cứu tiểu thuyết của Lan Khai có thể thấy ông viết ba loại khác hẳn nhau: tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết tâm lí xã hội, tiểu thuyết đường rừng. Với gần hai mươi cuốn tiểu thuyết lịch sử, Lan Khai trở thành tác gia tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng. Theo Ngọc Giao, cùng với Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, Lan Khai là một trong ba cây bút viết tiểu thuyết lịch sử nổi danh văn đàn Bắc Hà, được đông đảo bạn đọc ngưỡng mộ. Các tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai phản ánh những biến cố trong tiến trình lịch sử dân tộc, vừa tái hiện nhân vật lịch sử vừa thể hiện quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh mới trong các hình tượng nghệ thuật như vấn đề thế sự, cái thiện và cái ác, tình yêu và hạnh phúc, vẻ đẹp trí tuệ và khát vọng của con người. Có nhiều tác phẩm tái hiện rõ nét những sự kiện lịch sử với địa danh, con người và tập quán địa phương chân thực sinh động như Chiếc ngai vàng (1935), Ai lên phố Cát (1937), Chế Bồng Nga (1938), Đỉnh non thần (1940), Cưỡi đầu voi dữ (1940), Rỡn sóng Bạch Đằng (1941), Thành bại với anh hùng (1942), Tình ngoài muôn dặm (1942)... Thành công của những tác phẩm này được làm nên từ vốn sử liệu về đất nước - con người Việt Nam vô cùng phong phú, đặc biệt vốn sử liệu về đất và người vùng núi phía Bắc, đây thực sự là thế mạnh của ông. Gắn bó với núi rừng Việt Bắc yêu thương, ông đã chọn tên loài hoa rừng ông vô cùng yêu quý làm bút danh: Lan Khai (Hoa lan nở) để phần nào thể hiện tình yêu tha thiết đối với mảnh đất đã nuôi ông lớn khôn và chắp cánh cho tâm hồn ông. Bắt nguồn từ tình yêu ấy, mảng tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai thực sự là những bức tranh đặc sắc về thế giới thiên nhiên kì thú, về con người phóng khoáng chân tình, thể hiện cái nhìn nhân văn trước thiên nhiên, đất nước, con người của người nghệ sĩ - một nhà văn tinh tế, một hoạ sĩ tài hoa. Với hàng loạt tác phẩm đặc sắc Pàng Nhả (1933), Nơi ước hẹn (1934), Rừng khuya (1935), Sóng nước Lô giang (1935), Tiếng gọi của rừng thẳm (1939), Hồng Thầu (1940), Tiền mất lực (1940), Sưởi đêm (1941), Chiếc nỏ cánh dâu (1941)... nhà văn đã đưa độc giả vào tận rừng thẳm khám phá những vẻ đẹp hoang sơ kỳ bí của thiên nhiên, đến với những gia đình dân tộc ít người khám phá vẻ đẹp tâm hồn thanh khiết của con người bị coi là “mọi rợ”. Đó là thế giới thiên nhiên được đặt trong phạm vi không gian, thời gian xác định, thơ mộng mà chân thực với muôn loài cỏ cây hoa lá chim muông cùng những sắc màu, âm thanh, sự sống, biến đổi sinh động phong phú. Ở đó, thế giới nhân vật hiện lên chân thực và sống động với nhiều số phận khác nhau, những cô gái hồn nhiên chất phác (Tiếng gọi của rừng thẳm, Hồng Thầu), những chàng trai có tâm hồn cao đẹp, khoẻ mạnh hiền lành và dũng cảm (Tiền mất lực), những phong tục tập quán lâu đời trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng, trong lao động sản xuất và tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc Dao, Tày, H’Mông ở vùng núi phía Bắc. Trong truyện đường rừng của Lan Khai thế giới thiên nhiên luôn hoà hợp với con người, chứa đựng tâm hồn con người, thể hiện sự gần gũi, đồng điệu của tâm hồn và khả năng cảm nhận tinh tế, thính nhạy, tạo nên sức hấp dẫn cho những trang viết độc đáo của riêng ông. Chính những tác phẩm này đã làm nên thành tựu đặc sắc trong sự nghiệp văn học của Lan Khai, đưa ông trở thành nhà văn “đáng được nổi tiếng về tiểu thuyết đường rừng hơn cả” (Vũ Ngọc Phan). Tiểu thuyết tâm lý xã hội cũng là mảng đề tài được Lan Khai giành nhiều tâm huyết. Tác phẩm Nước Hồ Gươm sáng tác năm 1928, ra đời sau Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ba năm, là tiểu thuyết tâm lý xã hội đầu tiên và cũng là tác phẩm đầu tay mở đường vào tiểu thuyết của ông. Tiếp sau đó là Cô Dung (1928-1938), Lầm than (1928-1933), Liếp Li (1938), Trang (1939), Nàng (1940), Mực mài nước mắt (19410), Tội nhân hay nạn nhân (1941), Tội và thương (1942), Mưa xuân (1944)... Mỗi tác phẩm là một bức tranh chân thực và sống động về cuộc sống của người dân thuộc địa với những cảnh ngộ khác nhau, từ trí thức, nông dân, công nhân tới những người dân nghèo thành thị. Dù viết về thành thị, nông thôn hay hầm mỏ, Lan Khai luôn “gắng tìm đường mới”, điều đó cho thấy chiều sâu nhận thức về đất nước, dân tộc và nhận thức về vai trò của nghệ thuật, của người nghệ sĩ đối với vận mệnh dân tộc - đất nước ở nơi ông. Một trong những kết quả của ý thức “gắng tìm đường mới” đó là tác phẩm Lầm than, viết xong năm 1933, xuất bản năm 1939 đã gây tiếng vang lớn, được giới nghiên cứu và các nhà văn tên tuổi đánh giá cao, coi là tác phẩm đầu tiên của nền văn học tả thực Việt Nam và cũng chính là tác phẩm đã khiến thực dân Pháp hoảng sợ, phải bắt giam tác giả vào cuối năm 1939 vì nội dung chân thực mà chúng gọi là chống đối.

Cái sự “tham lam” mà vẫn rất thành công của Lan Khai còn thể hiện ở mảng Nghiên cứu phê bình, Sưu tầm, Dịch thuật. Với tư cách là nhà nghiên cứu phê bình - sưu tầm - dịch thuật tiêu biểu, tác phẩm của ông xuất hiện thường xuyên trên các tờ Loa, Ngọ Báo, Phụ nữ tân văn, Tao Đàn... Các tác phẩm Tính cách Việt Nam trong văn chương, Thiên chức của văn nghệ sĩ Việt Nam, Cái nguy mất gốc, Bàn qua về nghệ thuật, Một quan niệm văn chương, Cái đẹp với nghệ thuật, nhưng tiêu biểu là các tác phẩm Tài hoa… cái lụy ngàn đời (1934), Phác họa chân dung và tâm tính Tản Đà (1939), Con người Vũ Trọng Phụng (1939), Lê Văn Trương (1940), Vũ Trọng Phụng (1941), Hồ Xuân Hương (1941)... thực sự là những công trình nghiên cứu có giá trị, để lại dấu ấn sâu sắc trên văn đàn. Gió núi trăng ngàn (1934), Những câu hát xanh (1937) là những công trình sưu tầm đặc sắc, công phu, thể hiện sự thông hiểu sâu sắc văn hoá các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc. Bản dịch các tác phẩm Bức thư của người không quen của nhà văn Đức Stefan Zweig (1940), Tuổi thơ, hồi ức của Lev Tolstoi (1944) và những tác phẩm phỏng thuật có nhiều sáng tạo Cái đẹp với nghệ thuật, Félicien Challaye (1940), Tội và thương, Stefan Zweig (1942)… là những công trình thể hiện tài năng, vốn tri thức sâu rộng và tình yêu ngôn ngữ dân tộc của tác giả.

Riêng về hoạt động báo chí, với vai trò Tổng thư ký, phụ trách phần nội dung đồng thời cũng là cây bút chủ lực, Lan Khai đã đưa tạp chí Tao Đàn trở thành ấn phẩm tiêu biểu nhất của nhà xuất bản Tân Dân và trở thành chủ lực của nhà xuất bản. Dưới sự lãnh đạo của ông, tạp chí đã thu hút được sự cộng tác của nhiều tác giả danh tiếng ở nhiều chuyên mục. Viết cho phần Nghị luận khảo cứu có Phan Khôi, Lâm Tuyền Khách; Văn học cổ điển chữ Hán và chữ Nôm do Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Trọng Thuật, Ngô Tất Tố, Phú Hương đảm nhiệm; Về Văn chương hiện đại có Trương Tửu, Hoài Thanh, Trần Thanh Mại, Trúc Đường thường xuyên viết bài; Từ Ngọc, Nguyễn Triệu Luật, Tảo Trang, Kinh Dinh bàn về Ngôn ngữ dân tộc qua việc điển chế văn tự, cải cách chữ Quốc ngữ… Lan Khai còn được coi là người mở đầu sáng kiến làm số chuyên đề về chân dung tác giả văn học. Ông tập trung những bài viết về Tản Đà và Vũ Trọng Phụng, ra hai số Tao Đàn đặc biệt vào tháng 7 năm 1939 và tháng 12 năm 1939, liền ngay sau khi hai nhà thơ nhà văn lớn vừa qua đời để tưởng niệm, kịp thời ghi lại tình cảm sâu sắc nóng hổi và sự đánh giá của người đương thời đối với những văn nghệ sĩ có đóng góp lớn cho sự phát triển của báo chí và văn học dân tộc. Nhiều bài trong trong hai số đặc biệt của Tao Đàn đã trở thành giá trị kiểu mẫu của thể loại chân dung văn học, hồi ức phê bình văn học, trong đó Lan Khai cũng góp nhiều bài viết đặc sắc: Phác họa hình dung và tâm tính thi sĩ Tản Đà, Lê Văn Trương, Con người Vũ Trọng Phụng... Các chuyên mục Điểm sách, Giới thiệu sách mới, Thư cho bạn nhằm giới thiệu và bồi dưỡng những tài năng trẻ cũng được Lan Khai đặc biệt quan tâm và thường xuyên viết bài. Sự quan tâm ưu ái, trao đổi chân thành, chỉ bảo tận tâm và ông còn dành cho họ, những người muốn theo đuổi sự nghiệp văn chương, sự khích lệ động viên, luôn thể hiện trong các bài viết của ông.

Không chỉ có công tạo dựng uy tín cho tạp chí Tao Đàn, Lan Khai còn là một trong những người sáng lập Tiểu thuyết thứ bảy, viết nhiều bài và có nhiều ký họa đặc sắc, góp phần không nhỏ tạo nên sự phong phú hấp dẫn cho tờ báo nổi tiếng này.

Không ngừng sáng tạo, Lan Khai đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị tuy ông mất khi vẫn còn quá trẻ. Các sáng tác của ông đề cập đến nhiều vấn đề xã hội mang tính hiện thực cao với phong cách độc đáo, nhẹ nhàng giản dị mà vẫn đậm chất văn chương. Ở lĩnh vực nghiên cứu phê bình, ông có nhiều phát hiện đánh giá sâu sắc với cái nhìn thấu đáo mọi khía cạnh của vấn đề. Ông còn là nhà dịch thuật tài hoa, luôn trung thành với nguyên tác nhưng có cách diễn đạt trong sáng, phù hợp với cách cảm nghĩ của người Việt. Những thành công trong cuộc đời sáng tạo của ông thể hiện nhiệt huyết, tài năng và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước nhân dân và thời đại.

Lan khai không thể bị lãng quên. Ngày 26 tháng 7 năm 2006, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức lễ kỉ niệm 100 năm sinh nhà văn. Các tham luận đọc tại lễ kỉ niệm đều đánh giá cao tài năng, phẩm chất và những đóng góp của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại ở nhiều bình diện và những đóng góp cho nền báo chí Việt Nam đầu thế kỉ XX.